Suy Niệm 7 : NGƯỜI LỮ HÀNH
Không
mấy người hiểu được vị thế “không luôn dễ hiểu” của nhà truyền giáo, khi được
sai đi rao giảng và làm chứng Đức Giêsu vừa như tông đồ, và thầy dậy, vừa như
người lữ khách đồng hành với người được rao giảng.
Cái
“không luôn dễ hiểu” hệ tại ở một khúc mắc khó hiểu, đó là : đã là tông đồ
thì niềm tin vào Đức Giêsu tất phải vững chãi, trung kiên ; đã là thầy dậy
“những gì liên quan đến Thiên Chúa” (x. Lc 24,27) ắt cũng phải hiểu biết thâm
sâu, thấu đáo về Thiên Chúa. Vậy mà trong thực tế, các tông đồ của Đức Giêsu,
cũng như các nhà truyền giáo nối tiếp sứ vụ loan báo Tin Mừng của Nhóm Mười Hai
đã không luôn đạt được đòi hỏi này.
Trước
hết, Tin Mừng cho chúng ta biết các tông đồ là những người được chính Đức Giêsu
kêu gọi và tuyển chọn để làm môn đệ thân tín, “bạn hữu tri âm tri kỷ” (Ga
15,15), “kẻ lưới người như lưới cá” (Mc 1,17), “người thu phục người khác” (Lc 5,10),
người được sai đi “làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19), và các vị được Đức Giêsu ban cho quyền chăn dắt như mục
tử nhân lành (x.Ga 10), quyền giáo huấn để “dậy bảo muôn dân tuân giữ điều Thầy
đã truyền” (Mt 28,20), và quyền tha tội,
thánh hoá (x. Ga 20,19-20).
Qủa
thực, Đức Giêsu không những đã tín nhiệm, mà còn trực tiếp huấn luyện các vị, để
các vị trở thành mục tử chăn dắt, thầy dậy và tư tế, và ước mơ của Ngài là các
vị trở nên “đồng hình đồng dạng” với
Ngài trong mọi sự.
Nếu
chỉ dừng ở đây, chúng ta sẽ khó có thể lý giải : tại sao có những môn đệ,
nhà truyền giáo sống không xứng đáng với ơn gọi của nhà truyền giáo, môn đệ ? Cắt
nghiã thế nào hiện tượng suy thoái đạo đức, xa rời lý tưởng, kể cả xa lạ với sứ
vụ được trao phó ? Giải thích làm sao hiện trạng không chỉ suy thoái mà
còn phản Tin Mừng, đối nghịch với giáo lý đức tin, và luân lý Kitô giáo của một
số ít nhà truyền giáo ? Và hiểu thế nào cho đúng khi có những môn đệ tuyệt
vọng trên đường truyền giáo, thất vọng, tiếc nuối vì đã “bỏ mọi sự đi theo Đức
Giêsu”, bất mãn, công kích Giáo Hội là Mẹ đã cưu mang, nuôi lớn và sai đi ?
Vâng,
chúng ta không thể dừng lại ở ơn gọi tông đồ, sứ vụ truyền giáo, chức vụ thầy dậy,
mục tử của nhà truyền giáo, mà quên các vị vẫn mãi là người Lữ Hành như bất cứ
người Kitô hữu nào nói riêng, và toàn thể nhân loại nói chung, bởi tất cả đều
được mời gọi cùng bước đi trên hành trình về Đất Hứa, cùng lên đường về Nước Trời,
cùng đi theo một Đức Giêsu, Mục Tử duy nhất và đời đời.
Vì
còn là người lữ hành trên đường lữ thứ đầy cám dỗ, thử thách, mà Phêrô, tông đồ
trưởng, người được Đức Giêsu đăc biệt yêu thương và tín nhiệm đã nhiều lần to
tiếng nào là : “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt
16,16), “Bỏ Thầy, chúng con biết theo ai, vì Thầy có lời ban sự sống đời đời”
(Ga 6,68), nào là “cho dù tất cả có vấp phạm đi nữa, thì con cũng nhất định là
không” (Mc 14,29), và ngon lành hơn nữa khi
“gan cùng mình” qủa quyết một “câu xanh dờn, hết ý” : “Dầu có phải
chết với Thầy, con cũng không chối Thầy” (Mc 14,31), nhưng rồi không lâu sau đã
công khai chối phăng Thầy mình ba lần liên tiếp: “Tôi thề là không biết
người các ông nói là ai” (Mc 14,71).
Tin
Mừng Máccô còn ghi thêm : “Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy” (Mc 14,31),
nghiã là cùng thề thốt sống chết, cùng tuyên xưng nẩy lửa, cháy bỏng, ngoạn mục,
nhưng kết qủa là tất cả, ngoại trừ Gioan : người thì chối bỏ, phản bội,
người thì chỉ điểm lấy tiền (x. Mc 14,10-11) người thì bỏ trốn để bảo toàn tính
mạng, như thánh sử Máccô đã ghi rõ : “Bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy
trốn hết” (Mc 14,50).
Vì
còn mang phận người Lữ Hành trên đường dài nhiều chông gai, thách đố, nhà truyền
giáo, hay môn đệ Đức Giêsu cần ý thức : tuy mang sứ vụ cao cả, mang ơn gọi
cao siêu, mang quyền tha tội cao trọng, các vị cũng vẫn không dứt bỏ được thân phận Lữ Khách, nên bất cứ lúc nào
cũng có thể ngã qụy, “vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối”
(Mc 14,38) ; bất cứ ở đâu cũng có thể “lỡ bước sa chân”, vì chính Đức
Giêsu đã cảnh báo : “Tất cả anh em sẽ vấp ngã, vì Kinh Thánh đã
chép : “Ta sẽ đánh người chăn chiên, và chiên sẽ tan tác” (Mc
14,27) ; bất cứ hoàn cảnh nào cũng có thể bị “sa chước cám dỗ”, vì “Xatan
xin được sàng anh em như người ta sàng gạo” (Lc 22,31) ; bất cứ tình huống
nào cũng có thể lạc đường, mất hướng, vì “đây là thời của quyền lực tối tăm”
(Lc 22,53) ; bất cứ tình trạng nào cũng có thể dẫn tới nguy cơ làm điều bất
công, bất chính, vì “sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không
muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7,19).
Vì
còn phải làm người lữ khách đến hết đường đời, nên dù là môn đệ chính danh, dù
được chọn làm tông đồ đích thực, nhà truyền giáo vẫn có lúc bâng khuâng nghi
nan, có lúc lầm lũi sau màn sương dầy đặc, có khi ngao ngán trong đường hầm tăm
tối, có hồi mệt mỏi, chùn chân, sờn lòng bên vệ đường đói lả, như ngôn sứ Êli
ngày xưa trên đường lên núi Hôrép.
Và
hình ảnh người Lữ Hành vật vã vì vất vả, bải hoải vì thất bại, bàng hoàng vì
phút chốc tất cả đều tan hoang, dở dang, lỡ làng đã thể hiện rõ nét ở hai môn đệ
trên đường Emmau :
“Cũng
ngày hôm ấy”, tức ngày thứ ba sau khi Đức Giêsu chết và an táng trong mồ, “có
hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Emmau, cách Giêrusalem
chừng mười một cây số. Họ trò chuyện với nhau về tất cả những việc mới xẩy ra.
Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giêsu tiến đến gần và cùng đi
với họ. Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người” (Lc 24,13-16).
Hai
ông kể cho người bạn đường mới là Đức Giêsu : “chuyện ông Giêsu Nadarét.
Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên
Chúa và toàn dân. Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để
Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá » (Lc 24,19-20).
Hai
ông đã kể cho Đức Giêsu nghe những gì các ông đã biết về Đức Giêsu, và những gì
thượng tế và thủ lãnh dân Do Thái đã làm cho Ngài. Và tất cả điều đó đều thật,
đúng như các ông biết. Nhưng có một điều quan trọng mà các ông đã nghe, đã biết,
nhưng quên hẳn, đó là “Lời Hứa sẽ sống lại từ cõi chết”, mà Đức Giêsu đã nói đi
nói lại đến ba lần với các ông : “Người phải đi Giêrusalem, phải chịu đau
khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày
thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21 ; 17,23 ; 20,18-19).
Quên
Lời Hứa sống lại là dấu chỉ của thiếu sót, là hậu qủa của cơn chấn động sợ hãi,
là khủng hoảng tột cùng khi hy vọng đột ngột tan vỡ. Các môn đệ của Đức Giêsu từ
mấy năm nay, tuy có lúc căng thẳng vì bị người Do Thái chống đối, nhóm Pharisêu
khích bác, gây sự, nhưng không ai bỏ cuộc,
vì hy vọng vào vương quốc sắp đến của Thầy,
hy vọng ai nấy sẽ được vinh hiển với danh phận, chức tước ngất ngưởng cao sang (x.Mc
10,35-40). Nay mọi việc xẩy ra hoàn toàn trái ngược làm tiêu tan hy vọng quan lộ,
làm sụp đổ hy vọng một đời vinh quang, và dồn các ông vào ngõ bí, đẩy các ông
vào thế kẹt, hoàn toàn bế tắc.
Đây
chính là lúc các ông nhận ra phận lữ hành, thân lữ khách của mình, mà thất vọng
là dấu ấn chính hiệu, không thể chối cãi, khi chính miệng các ông thú nhận :
“Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc
Ítraen” (Lc 24,21).
Trước
đây tuy vẫn hy vọng, nhưng hy vọng này không là hy vọng của đức tin “tin một lần
là xong”, không là hy vọng của đức tin “gỗ đá, chỉ cần được đục đẽo, tạo hình một
lần là trọn vẹn”, nhưng là hy vọng của đức tin phải được lớn lên từng ngày, đức
tin liên lỷ chịu thử thách để trưởng thành, đức tin trôi nổi, xây sát, trầy trợt,
bị tung lên dìm xuống tơi tả để có sức dẻo
dai chịu đựng. Đó là đức tin của lữ khách nên trong niềm hy vọng có nghi nan,
phân vân, thắc mắc, do dự, có khả thể bỏ đi, hay ở lại, có tự do đi tiếp hay bỏ
cuộc, như những thách đố cần thiết của đức tin, như thử thách để lớn lên của hy
vọng.
Vì
thế, các môn đệ đã có lần nghi ngờ về giáo lý của Thầy mình, thậm chí nhiều môn đệ đã nói với Đức Giêsu : “Lời
này chướng tai qúa. Ai mà nghe nổi ?” (Ga 6,60), khi Ngài mặc khải : “Ai
ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại
vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, máu tôi thật là của uống” (Ga 6,54-55),
hoặc hồ nghi, thắc mắc về phần thưởng dành cho các ông, khi Phêrô, đại diện anh
em lên tiếng hỏi Đức Giêsu : “Thầy coi, phần chúng con đã bỏ mọi sự mà
theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì ?” (Mt 19,27). Và rất nhiều lần các
ông đã do dự, phân vân trước cám dỗ bỏ Ngài, như “nhiều môn đệ rút lui, không
còn đi theo Người nữa” (Ga 6,66).
Vì
đức tin là đức tin của người sống, nên đức tin phải sống động, và vì sống và động,
nên đức tin có thể hy vọng trước đây, nhưng bây giờ thất vọng. Hy vọng trước
đây khi được thấy tận mắt những phép lạ nước hoá thành rượu ở tiệc cưới Cana
(x. Ga 2,1-12), bánh hoá nhiều nuôi cả đám đông hàng vạn người (x.Mt 15,32-39),
người què đi được, người mù được sáng mắt, người bị qủy ám được giải thoát (x.
Mt 4,23-24) kể cả kẻ chết được sống lại (x. Ga 11,1-44), nhưng hôm nay thì thất
vọng và đầy ngờ vực, nghi nan, khi Thầy bị kết án tử đóng đinh (x. Lc
24,21-24).
Vâng,
thất vọng, ngờ vực, thắc mắc, nghi nan là dấu ấn chính hiệu khi đường đời không
luôn thênh thang của người lữ hành, khi thuyền đời không luôn thuận buồm
xuôi gió của lữ khách ; là dấu ấn không thể chối cãi, vì người lữ hành
không thể biết hết những gì sẽ xẩy ra, lữ khách không thể nắm chắc, tiên liệu mọi
sự, mọi việc của chặng đường ngày mai, và đường dài tương lai sắp tới.
Con
đường đức tin “vững chắc, thênh thang” của các môn đệ hôm nào khi cùng thầy lên
núi Tabo biến hình, hay cùng Thầy vào thành thánh giữa tiếng hoan hô vang trời
của dân chúng hâm mộ nay bỗng chênh vênh, gập ghềnh, quanh co, đầy bất trắc,
chướng ngại nguy hiểm, và hoàn cảnh bi đát này đã đánh thức các ông ra khỏi giấc
mộng vàng khanh tướng, để trở về với thân lữ khách, kiếp lữ hành dong duổi,
gian lao, còn phải trường kỳ chiến đấu
cam go, cực khổ mới mong đạt đích, đi đến cùng đường.
Giấc
mộng đức tin “một lần hoàn thành cho tất cả”, “một lần hoàn hảo cho cả đời” của
hai môn đệ đã vỡ toang trên đường Emmau, khi các ông phải thẹn thùng nghe Đức
Giêsu trách móc : “Các anh chẳng hiểu gì cả. Lòng trí các anh thật là chậm
tin vào lời các ngôn sứ !” (Lc 24,25). Và hai môn đệ đã nhận ra ơn gọi lữ
khách phải luôn đồng hành với mọi người, khi “lòng họ bừng cháy lên” mắt họ mở
ra nhận ra Đức Giêsu khi “Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao
cho họ”, khi đồng bàn với họ (Lc 24,30-31).
Như
thế, nhà truyền giáo ngoài sứ vụ loan báo và làm chứng Đức Giêsu, còn mang một
nghiã vụ khác nữa, đó là đồng hành với mọi người không chỉ như anh em, mà còn
như người lữ hành cùng một thân phận, lữ khách cùng một điều kiện, bạn đường
cùng một hoàn cảnh.
Nếu
Đức Giêsu sai các môn đệ đi truyền giáo, Ngài cũng sai các ông lên đường và đồng
hành với mọi người, đặc biệt với người được các ông loan báo Tin Mừng, giới thiệu
Đức Giêsu.
Vì
thế, tinh thần chủ nhân của Tin Mừng, não trạng độc quyền Lời Thiên Chúa, thái
độ của kẻ thánh thiện vượt trội trên mọi người, kiểu sống của người giầu có bố
thí, thi ân, ảo tửởng đức tin của mình là số một, tất cả đều không xứng hợp với
nhà truyền giáo, vì như mọi người, nhà truyền giáo vẫn còn phải cùng mọi người
bước đi trên đường, vẫn mãi là lữ khách đường xa, vẫn chưa hết chông gai, khó khăn,
thử thách của người lữ hành trên hành trình gặp Chúa và anh em.
Hơn
thế nữa, hành trình của nhà truyền giáo luôn mang hai đòi hỏi có cùng một giá
trị : đòi hỏi là người hướng đạo, và đòi hỏi là lữ khách, bạn đường của mọi người.
Thiếu một trong hai, bước chân truyền giáo không thăng bằng, nhưng khập khiễng,
sẽ làm chao đảo, vấp ngã nhà truyền giáo ; chỉ dựa vào quyền được trao để
chăn dắt, dậy dỗ, tha tội, thánh hoá, mà quên bổn phận đồng hành của người lữ
hành, nhà truyền giáo sẽ từ xa lạ đến xa cách, từ phân biệt đến biệt lập, từ
cao ngạo đến lố bịch, từ lập dị đến kệch kỡm. Và như thế, nhà truyền giáo không
thể chu toàn sứ vụ truyền giáo được Giáo Hội trao.
Con
đường Emmau của hai môn đệ khi niềm tin đổ dốc như bóng chiều sụp đổ chính là
con đường truyền giáo của những người được sai đi. Trên con đường này, Đức
Giêsu có mặt và cùng đi : đi để giảng dậy, giải thích cho các ông những gì
liên quan đến Thiên Chúa (x. Lc 24,27) ; đi như “một người lữ hành, lữ
khách” đồng hành bên các ông để nâng đỡ, an ủi, làm phấn chấn tinh thần và đốt
cháy lên niềm hy vọng sắp tắt như “ngày
sắp tàn” trong tim các ông (Lc 24,29) ; đi với sứ vụ của nhà truyền giáo vừa
rao giảng, hướng đạo, vừa đồng hành chia sẻ.
Ngài
chia sẻ nỗi buồn, chia sẻ thất vọng, chia sẻ những xót xa của môn đệ mất thầy,
chia sẻ u uất của con mất cha, chia sẻ
cay đắng của một niềm tin từ nay không dám nuôi niềm hy vọng. Như lữ
khách khi trời đã xế chiều, Đức Giêsu vui lòng ở lại, và cùng chia sẻ cơm canh
với hai môn đệ sau quãng đường dài đức tin nhiều thử thách.
Và
như Đức Giêsu đã giảng dậy, giải thích “những gì liên quan đến Người trong tất
cả Sách Thánh” (Lc 24,27) trên đường Emmau, nhà truyền giáo cần đuợc trang bị
những gì thuộc về Thiên Chúa, cũng như các nhân đức siêu nhiên, cảm nghiệm
thiêng liêng để hướng dẫn mọi người đến gặp Thiên Chúa. Đồng thời, nhà truyền
giáo không quên xây dựng cho mình những đức tính nhân bản cần thiết, để trở
thành người bạn đường tử tế, nhân hậu, công
bình, dễ mến, đáng tin, hào hiệp, qủa cảm, hy sinh, có tinh thần đồng đội, để đồng
hành với mọi người đi hết con đường Chúa muốn mọi người cùng đi, và qủang đại
chia sẻ ơn huệ của Ngài cho tất cả những ai biết yêu thương và đồng tâm nhất
trí đi tìm Ngài.
Xin
Chúa thương các nhà truyền giáo và ban cho các vị học với Đức Giêsu phục sinh
trên đường Emmau, khi biết rao giảng, giải thích “những gì liên quan đến Thiên
Chúa”, đồng thời biết đồng hành như người lữ khách, bạn đường của mọi người, để
cảm thông, nâng đỡ và chia sẻ đến tận cùng những đau buồn, cay đắng, thất vọng
của những tâm hồn khắc khoải, thao thức trên hành trình đi tìm Chúa là Chân Thiện
Mỹ tuyệt đối, và đốt lên trong trái tim họ lửa Hy Vọng của Niềm
Tin vào Đức Giêsu, Đấng đã sống lại thật từ cõi chết như lời Người đã hứa để đem Sự Sống
đời đời và Hạnh Phúc đích thực cho hết mọi người. Alléluia !
Jorathe
Nắng Tím