Pages - Menu

Thứ Hai, 13 tháng 7, 2020

ĐỨC TIN CỦA HỘI THÁNH

Rất nhiều khi chúng ta quên khuấy đi mình đã nhận đức tin từ Hội Thánh khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội. Ngày đó, chính chúng ta hoặc cha mẹ, người đỡ đầu trước câu hỏi “Con xin gì cùng Hội Thánh?” của linh mục, phó tế cử hành bí tích đã  hân hoan trả lời: “Con xin Đức Tin cùng Hội Thánh”. Và nếu đã xin Hội Thánh đức tin, thì đức tin ấy mãi mãi có nguồn gốc từ Hội Thánh, và được Hội Thánh nâng đỡ, gìn giữ đến cùng. Thế mà trong thực tế, ta lại coi đức tin là sở hữu của riêng mình, và ngây ngô nghĩ mình bỏ vốn đầu tư mà có được.
Thực vậy, đức tin của ta không chỉ là quà tặng từ Thiên Chúa thông qua Hội Thánh của Ngài, mà đức tin ấy còn thuộc về và ở trong đức tin của toàn thể Hội Thánh gồm các thánh trên trời, các tín hữu đang sống và linh hồnc tín hữu còn trong giai đọan thanh luyện trước khi về hưởng Thiên Nhan. Vì thế, đức tin của Hội Thánh chính là thành trì cho đức tin ta nương náu, là núi đá che chở đức tin  rất yếu đuối của ta, như lời cầu nguyện trong thánh lễ: “Lậy Chúa, xin đừng chấp tội chúng con, nhưng xin nhìn đến đức tin của Hội Thánh Chúa”, bởi chúng ta ý thức: chỉ với đức tin nhỏ bé, dòn mỏng của riêng mình, mà không có đức tin của toàn thể Hội Thánh, chúng ta không đáng được Chúa xót thương tha thứ và nhậm lời cầu xin.
Chính vì cần nương náu nơi đức tin của Hội Thánh để được Thiên Chúa xót thương, mà chúng ta không thể đặt đức tin của riêng mình ra ngoài đức tin của Hội Thánh; không thể ảo tưởng mình hoàn hảo và vững mạnh trong đức tin của riêng mình, mà tự tách ra khỏi đức tin của các thánh Tông Đồ được gọi là đức tin tông truyền; không thể tự cho mình quyền và khả năng nắm trọn chân lý đức tin, mà không tháp nhập đức tin của mình vào đức tin của toàn thể Hội Thánh; và không thể tự xây đức tin của mình trên một Tảng Đá nào khác, không phải tảng đá Phêrô, trên đó Đức Giêsu đã thiết lập Hội Thánh của Ngài.
Vì được lãnh nhận đức tin từ Hội Thánh, nên sẽ rất vô lý nếu chúng ta tự nhận đức tin ấy của mình, và có quyền thay đổi, cắt xén hay thêm thắt vào đức tin những gì không thuộc đức tin của Hội Thánh, nơi Đức Giêsu ký thác kho tàng Chân Lý cứu độ của Ngài cho nhân loại. Cũng vì được Hội Thánh cưu mang, sinh ra, nuôi dưỡng, đào tạo trong đức tin, nên khi chối bỏ, khước từ đức tin của Hội Thánh mà từ đó đức tin của chúng ta được ươm trồng, đâm chồi, nẩy lộc tưởng sẽ là một phi lý khó quan niệm.
Thực vậy, trong đời sống hằng ngày, không thiếu những gương xấu nơi những người con của Hội Thánh làm đức tin của chúng ta chao đảo, lung lay; không thiếu những hoàn cảnh gây bất mãn, nghi ngờ sự tinh ròng của đức tin nơi Hội Thánh khiến chúng ta muốn “xem lại, xét lại, sửa lại” đức tin đã lãnh nhận từ Hội Thánh của mình; không thiếu những cơn sóng cám dỗ của các học thuyết chống lại Hội Thánh với những luận chứng nghe rất bùi tai lôi cuốn chúng ta vào con đường bỏ đức tin theo lạc giáo; không thiếu những đêm tối đức tin ở đó cuồng phong thế gian và ma qủy cố đẩy chúng ta đến vực thẳm “tháo bỏ đức tin của Hội Thánh” ra khỏi cuộc đời mình; không thiếu những lúc tâm hồn khô khan, nguội lạnh không còn chút lửa đức tin; và cũng không thiếu những lúc lửa hoả ngục bùng cháy dữ dội trong tâm hồn khiến chúng ta lầm tưởng là lửa của Chúa Thánh Thần thúc chúng ta xuống đường lên tiếng đòi cải cách, cải tổ đức tin, đòi hiện đại hóa, cập nhật hoá đức tin, đòi “thiết kế, lắp ráp” một đức tin hợp gu, hợp nhãn, phù hợp với nhu cầu, đòi hỏi của thế gian hơn.
Chính những lúc sóng gió nhiều rủi ro, nguy hiểm, chúng ta cần quy chiếu đức tin của mình vào đức tin của toàn thể Hội Thánh. Chính trong tâm bão của thử thách cam go, chúng ta cần chạy đến nương náu nơi đức tin của Hội Thánh, vì Đức Giêsu đã chính thức công bố: Ngài ở với Hội Thánh cho đến tận thế, và trên Tảng Đá Phêrô, Ngài xây dựng Hội Thánh của Ngài, mà đến qủy hoả ngục cũng không thể làm gì nổi (x. Mt 16,18 ; 28,20).
Hình ảnh các tông đồ thất kinh bát đảo trên biển đêm nào là hình ảnh của chúng ta khi thuyền các ông “thì đã ra xa bờ cả mấy cây số, bị sóng đánh vì ngược gió”. Và các ông hoảng hốt bảo nhau: “Ma đấy! và sợ hãi la lên”, khi Đức Giêsu đi trên mặt biển mà đến với các ông. Ông Phêrô liền thưa với Người: “Thưa Ngài, nếu qủa là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài”. Ông Phêrô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước mà đến với Đức Giêsu. Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và khi bắt đầu chìm thì ông la lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với!. Đức Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông…” (Mt 14,24-30).
Như các tông đồ, chúng ta đáng bị Đức Giêsu quở trách: “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?” (Mt 14,31), khi chúng ta ngờ vực đức tin của mình là đức tin đã lãnh nhận từ Hội Thánh và mãi mãi được Hội Thánh chăm nom, săn sóc, giữ gìn, bảo vệ và làm cho trưởng thành, vững mạnh. Cũng như thánh Phêrô, chúng ta đừng sợ đến với Chúa qua Hội Thánh và trong Hội Thánh khi đức tin bị thử thách, vì Hội thánh là nhà của Thiên Chúa ở trần gian, nơi Đức Giêsu luôn hiện diện và yêu thương cứu chữa như đã giơ tay nắm lấy Phêrô khi ông chỉ nhìn xuống chân mình mà quên không nhìn vào chính Chúa, chẳng khác gì chúng ta đôi lần trong khủng hoảng đã chỉ nhìn nhìn vào đức tin của mình mà quên cậy dựa vào đức tin của Hội Thánh Chúa. 
Jorathe Nắng Tím

VÔ DUYÊN

Vô duyên rất thường được sử dụng để đánh giá lời nói, thái độ, cung cách của người khác. Vì rất thường được sử dụng, nên dễ rơi vào tình trạng dễ dàng gán cho bất cứ ai hai chữ vô duyên, mà không thẩm định đúng mức giá trị của sự việc, như cô gái được chàng trai lạ tấm tắc ca ngợi nhan sắc và hết lòng ngưỡng mộ “người đẹp” lại bị người đẹp quở trách “vô duyên”.
Người ta có thể bị coi là vô duyên khi “làm thiên hạ cười” không đúng người, đúng lúc, như tấu hài trước người vừa nhận hung tin cha mất, mẹ nhập viện, con thi rớt; như pha trò đang lúc hội nghị bàn về những vấn đề nghiêm trọng, đòi chú ý cao độ; như khen chê cách kệch cỡm, không đúng sự thật và không phù hợp hoàn cảnh, tình huống, cũng như tình trạng tâm lý của người được khen, hay bị chê. Cũng có thể bị cho là vô duyên khi ngôn từ dùng không chỉnh, chữ nghiã thô sơ đến lố bịch, lạc lõng, nên muốn mọi người cười nhưng tất cả đều chửi, mong cử tọa vỗ tay hoan nghênh mà ai nấy đều tím mặt ngượng giùm.
Qủa thực, không dễ để biết bản chất của “vô duyên”, cũng như nhận diện chân tướng của “có duyên”. Ở đây, người viết dám mạo muội chia sẻ với Bạn chút ít kinh nghiệm với hy vọng đóng góp  nét duyên cho đời nhau, và niềm vui cho cuộc sống hôm nay trên cõi đời này.
1.   Duyên phát xuất từ tâm hồn:
Duyên không là sở hữu “bất khả nhượng” của người có nhan sắc, không là hành trang “độc quyền” của người đẹp, nhưng bất kể ai cũng có quyền “duyên”, cũng được “có duyên”, vì “duyên” không hệ tại thân xác, mặc dù diện mạo bên ngoài cũng góp phần làm duyên thêm đậm đà, tô thêm cho duyên nét mặn mà, tươi thắm, nhưng duyên đến từ tâm hồn, duyên phát sinh từ trái tim, duyên rạng rỡ, sáng ngời nhờ ánh sáng của nhân ái, từ tâm.
Các nhà tâm lý đều đồng ý: 70 % người vô duyên là những người thiếu một tâm hồn, nghiã là thiếu lòng nhân ái, bởi lẽ hầu hết những lời nói vô duyên đều mang tính coi thường, xúc phạm  người khác hơn là “bông đùa không ý tứ, vô tội vạ”. Vấn đề là ngay chính đương sự đã không ý thức mình đã vô duyên do tâm hồn  vẩn đục, khi buông những lời vô duyên bộc lộ tâm hồn trống vắng tình người, nghèo nàn nhân nghiã
Thực vậy, nếu phân tích thấu đáo những lời nói vô duyên nghe được trong đời, ta sẽ thấy hầu hết đều xuất phát từ tâm hồn không trong sáng và quảng đại đối với tha nhân.
Không trong sáng, tâm hồn mới biến lời nói thành vô duyên khi thăm hỏi mà như khiêu khích, “quan tâm” mà như đe dọa, “nhắn nhủ” mà như “dao cắt, kim đâm”. Người viết xin  kể hầu Bạn một số trường hợp mắt thấy tai nghe :  
Rất lâu năm không gặp nhau, tình cờ gặp lại người bạn vong niên đã hơn tám mươi tuổi trong một đám cưới, một quan chức đương thời “hô hố” trước ông cụ và  đám đông có mặt: “Ơ, tôi tưởng ông chết lâu rồi chứ. Thế ra vẫn còn sống đấy à?”. Ông quan to đã làm mọi người “đứng hình” vì qúa vô duyên, kệch cỡm.
Gặp nhau trong sân trường, cô gái nhe chiếc răng khểnh vừa chỉ mặt bạn vừa khôi hài: “Xanh mét thế này thì hỏi ai chẳng biết bồ mới đi ngủ với trai đêm qua!”. Trời đất! Con gái chưa chồng mà khôi hài kiểu “vô duyên” này thì còn gì nhẫn tâm hơn?
Giữa bữa tiệc đông người, ông bạn vừa gọi đích danh người bạn nghèo, vừa hề hề phán: “Khẩn trương tập trung ăn nhiều đi, tớ biết nhà cậu cả tháng cũng chẳng có được miếng thịt”. Hài hước vô duyên kiểu “đá giò lái” này thì độc hơn cả thịt chó, khiến thực khách có mặt lặng người buông đũa.
Thực vậy, nếu tâm hồn quan chức đương nhiệm trong sáng, thì lời nói của ông không “đen tối” mầu tang chế, khi “ngạc nhiên” vì cụ già, bạn vong niên của mình còn sống; nếu tâm hồn cô nữ sinh tình nghiã với bạn, thì cô đã chẳng xâm xoi đời tư của bạn mình, với thành kiến xấu, với ý nghĩ ác độc ảnh hưởng thanh danh, uy tín; nếu tâm hồn ông bạn đồng bàn không chật hẹp, nhỏ mọn thì miếng thịt đâu có cơ may trở thành lời châm biếm tàn nhẫn. Như thế, những câu bông đùa  gây tiếng cười để tạo duyên, những phát ngôn tưởng mua vui cho mọi người để được tiếng “ăn nói duyên dáng”, những phát biểu tưởng làm rộn ràng bầu khí, phấn khởi lòng người hoá ra chỉ là những vô duyên làm đau lòng người, những kệch cỡm làm nặng lòng bạn hữu, những lố bịch làm tan nát trái tim nhiều người, mà nguyên nhân sâu sa chính là thiếu một tấm lòng.
Vì thiếu tấm lòng mà người ta trở nên vô duyên khi không đủ bác ái để nghĩ và nói những lời xây dựng hạnh phúc của người khác; vì thiếu tấm lòng mà người ta dễ vô duyên khi  soi mói, cầy bới  đời tư của nhau; vì thiếu tấm lòng, mà người ta trở nên vô duyên khi khép chặt con tim, để tự biến mình thành tù nhân của ganh ghét, đố kỵ.
Do đó, cái duyên sâu đậm, cái duyên qúy giá, cái duyên vĩnh cửu không bao giờ tàn phai, héo úa với tuổi tác, thời gian chính là cái duyên được cưu mang, nuôi lớn và sống dồi dào nhờ tâm hồn biết thông càm, trái tim biết chạnh lòng, và tấm lòng bác ái, vị tha, bởi chỉ những gì phát xuất từ tâm hồn trong sáng, nhân ái,  quảng đại mới bất tử trường sinh và đem lại “duyên dáng, duyên lành, duyên thắm” cho mình và niềm vui, hạnh phúc cho người chung quanh.
2.   Duyên còn là thái độ:
Người ta thường chú ý đến “ăn nói có duyên”, mà ít quan tâm đến “thái độ có duyên”, trong khi cung cách, thái độ mới đem lại nhiều nét duyên ấn tượng không ngờ, khi tâm hồn trong sáng, nhân ái, qủang đại.
Khi gặp một người, ta có thể bị hớp hồn qua thái độ có duyên của họ, mặc dù họ không nói gì, cũng chẳng “ba hoa, lắm lời”, nhưng đôi mắt ân cần quan tâm, nụ cười hiền hoà, khiêm tốn, nhất là thái độ  tế nhị, đằm thắm của họ làm họ nổi bật “có duyên” hơn nhiều người, và để lại trong ta hình ảnh đẹp về một con người rất “có duyên” với tâm hồn trong sáng, thánh thiện.
Thực vậy, chỉ một thái độ nhã nhặn sẽ nối kết những gì còn xa lạ, và chỉ một chút ân cần quan tâm sẽ biến những xa xôi, cách trở thành thân tình, gần gũi. Nhưng để có được thái độ nhã nhặn, ân cần, chúng ta phải có một tâm hồn đầy ắp yêu thương, một trái tim vị tha, qủang đại, bởi thiếu tâm hồn, hành vi nào cũng nhạt nhẽo, vô tình, thái độ nào cũng vô hồn, vô duyên.
Hiểu thế nào theo nhà Chúa, hay nhà Chùa thì Duyên cũng được hiểu là duyên phúc, ơn phúc, hồng phúc, nên người được gọi là “có duyên” chính là người đem lại cho người khác niềm vui và bình an. Nhưng để trao tặng duyên lành, duyên phúc, gọi tắt là hạnh phúc, người có duyên phải là người có phúc, người đầy ơn phúc trong tâm hồn, bởi không ai có thể cho cái mình không có.
Ước gì, chúng ta đều là những người “có duyên” để mọi nơi, mọi lúc, trong mọi tình huống, hoàn cảnh của cuộc đời, chúng ta luôn trở thành niềm vui, bình an, và hy vọng cho nhau, qua lời nói, thái độ, cung cách “có duyên”, nhờ luôn giữ  tâm hồn đầy phúc của lòng nhân ái.
Jorathe Nắng Tím     

TRẺ EM VÀ INTERNET


Thế giới văn minh với thời đại “a còng @” đã thay đổi khủng khiếp sinh hoạt của con người. Ngày xưa, để nhận một lá thư từ Âu châu về Việt Nam, người ta phải mất ít là một tháng; ngày nay chì 2 giây… Ngày xưa gọi điện thoại là một ước mơ, ngày nay điện thoại miễn phí từ Paris vể Việt Nam, nếu gọi vào điện thoại bàn… Miễn phí nên gọi hoài cũng chán vì chẳng còn gì để “tám”, không lẽ cứ hỏi đi hỏi lại: “có khoẻ không?”. Tin tức thì khỏi nói: muốn tin gì có tin đó, từ tin “vịt cồ” đến tin đứng đắn, từ thông tin bừa bãi, nhăng nhít của những tay chuyên nghiệp lừa đảo đến những thông tin quan trọng có tầm cỡ quốc tế. Trò chơi giải trí thì vô cùng phong phú: từ trò chơi cho em bé hai tuổi đến ô chữ cho ông già, bà lão gạch gạch, xoá xoá cho qua ngày. Kiến thức cũng miên man, vô tận: từ chuyện trồng cây, nuôi cá cảnh đến cách chữa bệnh nan y, kỹ thuật lên sao Hoả. Gần đây với kỹ thuật “Face Book”: chỉ cần chọn nickname, vào danh sách kết bạn là có hàng trăm, hàng ngàn bạn mới cũ, xa gần… Qua internet, người ta gặp nhau dễ dàng, thông tin nhanh chóng, tha hồ trau dồi kiến thức. Với internet, thế giới nhỏ lại và con người gần nhau hơn.
Như thế internet là phương tiện rất văn minh để học hỏi, thông tin, nối kết, khám phá, cải tiến, sáng tạo, giải trí. Người ta dùng internet để làm việc, để thư giãn, để kết bạn, làm quen. Internet đi vào đời sống và hầu như ai cũng có internet như người bạn trong sinh hoạt. Cứ nhìn em bé chưa đầy 2 tuổi lướt nhanh ngón tay tìm trò chơi  trên màn hình Ipad để đủ biết sức mạnh xâm lăng của Internet lớn và rộng như thế nào trong đời sống con người thời đại “a còng”.

Nhưng bên cạnh những ích lợi đem lại, Internet cũng là “người khách không mời cũng đến, đến rồi không đi” khi len lỏi tận thâm cung của mọi gia đình, bằng chứng là nằm trên giường rồi mà vẫn ôm Internet, “chat”, “Skype” suốt đêm với bạn bè, người yêu. Biết bao em bé mê man chơi “game” trên mạng đến quên ăn, bỏ học! Bao nhiêu em bé lừ đừ như người “nghiện” vì hàng giờ dán mắt vào màn hình mà quên ngủ. Đời sống xem như bị điều kiện hoá bởi Internet và một ngày không có internet được coi là một ngày rất xấu, rất buồn với rất nhiều người.
Theo thống kê của hội Bảo Vệ Trẻ Em tại Pháp, có đến 28% trẻ em từ 9 đến 10 tuổi và 59% từ 11 đến 12 tuổi mê internet. Những em bé này  trung bình 3 giờ một ngày ngồi trước Internet.
Các em tìm gì và gặp gì trên internet ?
Các em đã gặp những gì các em tìm, nhưng cũng gặp những điều các em không tìm.

Những điều các em không tìm, nhưng phải gặp, đó là:
1.   Cả một chợ trời buôn bán “tình dục” mà người ta khoe hàng, chào hàng thoải mái. Không thiếu một ngón ăn chơi, một kỹ thuật nào ở chợ tình internet. Và người ta tha hồ bấm vào đó mà “ngâm cứu” và “tự sướng”. Sở dĩ các em không tìm mà thấy, không kiếm mà gặp vì những trang web về Sex này nhan nhản, bay tứ tung và tự do lao vào những trang mạng đứng đắn. Có vị linh mục già hết hồn hết viá khi một trang web đầy những vú mông đang điên cuồng lúc lắc nhẩy bổ vào bài giảng của Đức Giáo Hoàng mà ngài đang chăm chú đọc trên mạng. Những người đầu tư, khai thác tình dục có đủ kỹ thuật tinh xảo để lôi kéo mọi người rơi vào mạng lưới trụy lạc, suy đồi. Và một khi đã bị mắc vào một mắt lưới tình dục, người ta sẽ rất khó rút chân ra khỏi mạng lưới.
Nhiều em bé đã hư vì xem hình ảnh dâm ô trên mạng. Các em đã bị đầu độc qúa sớm bởi những phim ảnh đồi trụy, những chuyện khích dục tồi bại để rồi  ngay khi còn bé tâm hồn đã bị vẩn đục, tình cảm bị đui chột, ý chí bị chết yểu, lương tâm đạo đức bị  lu mờ.

2.   Cả một rừng trò chơi “đen đỏ” kích thích lòng tham . Đây cũng là điều các con em chúng ta không tìm nhưng lại thấy trên Internet: những trò chơi cá độ, ăn tiền. Có những em bé 12 tuổi đã biết chơi và say mê những trò đen đỏ trên mạng. Thử tưởng tượng tương lai của em sẽ ra sao khi tiền bạc đã sớm đốt cháy tuổi thơ!

3.   Cả một thế giới bạo lực rực cháy: Hầu hết những phim ảnh trên Internet đều khai thác bạo lực. Ngay cả những trò chơi cho các em bé 3 tuổi cũng không loại trừ bạo lực. Bạo lực trong tất cả. Tất cả cần bạo lực. Đi lạc vào thế gìới này, con em chúng ta sẽ sống trong thế giới bị bạo lực khép kín. Chúng sẽ chịu ảnh hưởng rất nặng của bạo lực và sẽ hành xử theo logic bạo lực trong đời thường. Những vụ cầm súng bắn bừa bãi của những em bé chưa quá 12 tuổi xẩy ra đó đây trên thế giới mà báo chí, truyền hình không ngừng đưa tin, bình luận đã cho thấy hậu qủa tai hại của phim ảnh, trò chơi bạo lực thường xuyên gặp được trên internet.


4.   Cả một vùng cạm bẫy, cám dỗ: Internet là nơi ai cũng có thể trút bỏ tâm sự và đó là nơi dễ gặp những người cùng hoàn cảnh, cùng tâm trạng. Chỉ cần lên Face Book, ta có thể nhâm nhi cả ngày những “tình cảm” của bạn hữu bốn phương, những người ta chưa từng biết mặt, gặp gỡ. Đây là cơ hội cho những “cáo già” săn lùng chiên non. Chẳng ai biết ai vì đã có chữ nghiã lấp lửng lấp liếm, đã có “văn chương ước lệ” che chở, hoá trang, tàng hình, nên người ta tha hồ “mây mưa cám dỗ”, mặc sức quyến rũ, ngon ngọt để bắt những con mồi ngây thơ, khờ dại. Những bẫy được giăng có thể là bẫy tình, bẫy tiền, cũng có thể là bẫy tín ngưỡng, lý tưởng. Nhưng đã là bẫy tất muốn đánh sụp đổ: đánh sụp tinh thần, đánh đổ thân xác những người vô phúc rơi vào bẫy. Nhiều em bé đã rơi vào bẫy của những tay buôn người. Nhiều cuộc đời trong trắng, thơ ngây đã bị phá hoại. Và nhiều gia đình đã tan nát vì mất con. Tất cả đã là sự thật đau lòng từ internet!

Nêu ra vấn đề là để tìm giải pháp. Giải pháp tốt nhất  là ngăn ngừa. Đừng để “mất gà rồi mới rào dậu”. Ngăn ngừa những lạm dụng, ngăn ngừa những nguy hiểm, ngăn ngưà những sơ hở, thiếu sót.
Vế mặt kỹ thuật, cha mẹ nên tư vấn những chuyên viên internet để đóng những cửa vào tự do các trang Web tình dục, bạo lực, cờ bạc. Bên cạnh đó là giới hạn thời gian truy cập internet. Không nên để con cái  nhỏ tuổi tự do vào internet và nên đặt internet ở nơi chung để ai cũng có thể “ghé mắt nhìn qua”. Nhờ được “thường xuyên ghé mắt ” mà em bé không dám tự mình liều lĩnh mạo hiểm vào những vùng “cấm điạ” nguy hiểm.
Tuy thế, giải pháp nào cũng đòi tình yêu thương hướng dẫn, đồng hành. Có yêu thương của cha mẹ, em bé sẽ bước đi an toàn, vì tất cả nguy hiểm có thể xẩy ra cho con đều đã được tình cha, tình mẹ tháo gỡ, đẩy lùi.