Pages - Menu

CON CÁI TỰ DO CỦA THIÊN CHÚA

 



Tin Mừng của Đức Giêsu là Tin Mừng giải phóng, vì Đấng là Tin Mừng chính là Đấng Cứu Độ, Đấng loan báo Tin Mừng là Đấng giải cứu, mà sứ vụ của Ngài là mang lại Tự Do cho mọi người, khi “loan Tin Vui cho kẻ nghèo hèn, công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, và công bố năm hồng ân xóa nợ của Chúa cho mọi người” (Lc 4,18-19).

Như thế, không ai có thể chối cãi Đức Giêsu là nhà giải phóng, không những giải phóng người cùng khổ khỏi cảnh bị khinh miệt, bóc lột, tù nhân khỏi xiềng xích giam cầm, người đau ốm khỏi trói buộc của bệnh tật, nhưng còn giải phóng con người khỏi ách thống trị của thần dữ, khỏi gánh nặng vô song của tội lỗi và khỏi nỗi lo sợ triền miên, kinh hoàng của sự chết, khi ban lại cho con người quyền làm con cái tự do của Thiên Chúa.

Khi tạo dựng, Thiên Chúa đã tạo nên con người giống hình ảnh Ngài, và hình ảnh Ngài chính là Tự Do. Cũng vì giống Thiên Chúa ở tự do, giống Thiên Chúa khi được là thụ tạo có tự do, mà con người đã có thể nói “không” với Thiên Chúa, như ông bà nguyên tổ đã bất tuân  lệnh cấm ăn trái cấm của Ngài.

Công trình cứu chuộc của Đức Giêsu, vì thế, cũng chỉ nhằm mục đích chuộc lại tự do đã mất của con cái Thiên Chúa, vì chỉ với tự do Đức Giêsu chuộc lại, con người tội lỗi mới nhận ra mình giống Thiên Chúa, nhờ thế mới có thể hiệp thông với Ngài trong sự sống và vinh quang đời đời của Ngài.

Kinh Thánh cho chúng ta biết Thiên Chúa là Đấng tự do : Ngài dựng nên muôn vật hữu hình và vô hình như Ngài muốn (x. St 1) ; Ngài tự do “thương ai thì thương, xót ai thì xót” (Xh 33,19) ; “Người quyết định rồi, ai làm Người đổi ý, điều lòng Người muốn, ắt Người sẽ thi hành” (G 23,13) ; “Ngài tự do chọn lựa mà không dựa vào việc người ta làm”, nhưng dựa vào ý muốn của Ngài, nên “người ta được chọn không phải vì muốn hay chạy vạy, nhưng vì được Thiên Chúa thương xót… Vậy Thiên Chúa thương xót ai là tùy ý Người, và làm cho ai ra cứng cổ cũng tùy ý Người” (Rm 9,12.16.18). Chính Đức Giêsu cũng cho các môn đệ biết “Ngài gọi đến với Người những kẻ Người muốn” (Mc 3,13).

Trong Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu cho chúng ta thấy thế nào là con cái tự do của Thiên Chúa : “Đức Giêsu nói với người Do Thái đã tin Người : Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi ; các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông”. Họ đáp : “Chúng tôi là dòng dõi ông Ápraham. Chúng tôi không hề làm nô lệ cho ai bao giờ. Làm sao ông lại nói : các ông sẽ được tự do?” Đức Giêsu trả lời : “Thật, tôi bảo thật các ông : hễ ai phạm tội, thì làm nô lệ cho tội. Mà kẻ nô lệ thì không được ở trong nhà luôn mãi, người con mới được ở luôn mãi. Vậy nếu Con Người có giải phóng các ông, thì các ông mới thực sự là những người tự do” (Ga 8,31-36).

Như thế, không ai trong chúng ta là người con tự do, nếu không được Đức Giêsu, Con Một Thiên Chúa chuộc lại quyền làm con tự do của Thiên Chúa đã mất vì tội. Và đây chính là Sự Thật có khả năng giải phóng chúng ta, có sức mạnh kéo chúng ta ra khỏi vực sâu nô lệ, có quyền năng làm cho chúng ta trở lại tình trạng được ân nghiã với Thiên Chúa như con cái với Cha mình. Và Sự Thật ấy chính là Đức Giêsu, Đấng là “Đường, Sự Thật và Sự Sống” (Ga 14,6). Ở Đức Giêsu, chúng ta có Sự Thật, và Sự Thật giải phóng chúng ta khỏi mọi ách thống trị, mọi gánh nặng nô lệ, mọi xiềng xích ngục tù để chúng ta được là những đứa con hoàn toàn tự do của Thiên Chúa.  

Thánh Phaolô cắt nghiã về tự do của con cái Thiên Chúa trong các thư của Ngài, khi viết : “Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta” (Gl 5,1) ; “Chúa là Thần Khí, và ở đâu có Thần Khí của Chúa, thì ở đó có tự do” (2 Cr 3,17) ; “Anh em không còn là nô lệ nữa, nhưng là con, mà là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa” (Gl 4,7).

Thánh Gioan Tông Đồ còn mạnh mẽ qủa quyết : “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1,11-12).

Tóm lại, để được trở thành con cái tự do của Thiên Chúa, chúng ta phải tin và đón nhận Đức Giêsu, Đấng giải phóng chúng ta khỏi tội lỗi, Đấng giải thoát chúng ta khỏi sự chết để ban lại cho chúng ta hạnh phúc của con người tự do, niềm vui của người con tự do.

Nhưng để tin và đón nhận Đức Giêsu, Thiên Chúa đòi chúng ta phải trở thành con cái của Sự Thật và con cái của Tình Yêu, khác với ma qủy, chúng có những đứa con của Dối Trá và những đứa con mang tên Ganh Ghét, Hận Thù.

Là con cái của Sự Thật, khi có trong cuộc đời Sự Thật của Thiên Chúa là Đức Giêsu, vì chỉ trong Ngài là Sự Thật của Thiên Chúa, chúng ta mới có Sự Sống của Thiên Chúa, bởi sự sống của Thiên Chúa chỉ thông ban cho con cái của ánh sáng, như thánh Phaolô đã khuyên dậy tín hữu Thêxalônica : “Thưa anh em, anh em không ở trong bóng tối, để ngày ấy như kẻ trộm bắt chợt anh em. Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối” (1 Tx 5,4-5). Trong văn hoá Do Thái, đêm và bóng tối biểu hiệu thời điểm thống trị của Thần Dữ, và vương quốc của sự chết, nên chỉ ai “thuộc về ban ngày”, “mới có niềm hy vọng được cứu rỗi” và được sống (x. 1Tx 5,8).

Trong Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu đã khẳng định với đám đông : Ngài là Ánh Sáng : “Ánh sáng còn ở giữa các ông ít lâu nữa thôi. Các ông hãy bước đi, bao lâu các ông còn có ánh sáng, kẻo bóng tối bắt chợt các ông. Ai bước đi trong bóng tối, thì không biết mnìh đi đâu. Bao lâu các ông còn có ánh sáng, hãy tin vào ánh sáng, để trở nên con cái ánh sáng, và con cái ánh sáng chính là con cái của sự thật” (Ga 12,35-36).

Bên cạnh đòi hỏi phải trở nên con cái của Ánh Sáng Sự Thật, con cái tư do của Thiên Chúa còn phải là con cái của Tình Yêu, như thánh Phaolô đã viết : “Anh em đã được gọi để hưởng tự do. Có điều là đừng lợi dụng tự do để sống theo tính xác thịt, nhưng hãy lấy đức yêu thương mà phục vụ lẫn nhau. Vì tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là : Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Nhưng nếu anh em cắn xé nhau, anh em hãy coi chừng, anh em tiêu diệt lẫn nhau đấy!” (Gl 5,13-15).

Cũng trong thư gửi giáo đoàn Galát, thánh tông đồ dân ngoại nhấn mạnh : con cái tự do của Thiên Chúa là những người ở với Thần Khí của Chúa, “để cho Thần Khí hướng dẫn” (Gl 5,18), và được hưởng “hoa trái của Thần Khí là : bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Gl 5,22-23). Tất cả hoa trái vừa kể đều được cưu mang, nuôi lớn từ tình yêu, mà Thánh Thần là Tình Yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa, và nhờ đón nhận Thánh Thần, “chúng ta được ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong chúng ta” (x. 1 Ga 4,13). 

Thực vậy, người con tự do của Thiên Chúa  là người có sự thật và tình yêu. Có sự thật khi người mang sự thật được tự do nói lên sự thật, tự do làm chứng sư thật, mà không sợ bất cứ ai, bất cứ sự gì, bất cứ quyền lực, thế lực nào đe dọa ; có tình yêu khi người mang tình yêu được tự do yêu thương, tự do gieo rắc yêu thương, tự do vun trồng, chia sẻ yêu thương với mọi người mà không phân biệt, kỳ thị.

Như thế, Sự Thật và Tình Yêu ở con người tự do, ở người con tự do của Thiên Chúa cùng lúc vừa là điều kiện để là người tự do, vừa là việc làm của tự do, vừa là mục đích của tự do, bởi Sự Thật, Tình Yêu là chính Thiên Chúa, Đấng cho chúng ta được trở nên con cái tự do của Ngài, và được thừa hưởng gia nghiệp đời đời Chúa Cha trên trời dành cho con cái tự do trong Sự Thật và Tình Yêu của Ngài.

Jorathe Nắng Tím

NGÔN SỨ GIẢ, THỢ VẼ

 


Chúng ta đang sống ở thời đại mà Đức Giêsu đã cảnh báo : “Anh em hãy coi chừng, đừng để ai lừa gạt anh em, vì sẽ có nhiều người mạo danh Thầy đến nói rằng : Chính Ta đây là Đấng Kitô, Bấy giờ sẽ có nhiều người vấp ngã. Người ta sẽ nộp nhau và thù ghét nhau. Sẽ có nhiều ngôn sứ giả xuất hiện và lừa gạt được nhiều người. Vì tội ác gia tăng, nên lòng yêu mến của nhiều người sẽ nguội đi. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 24,4-5.10-12).

Nhưng ngôn sứ giả là những ai, và chiêu trò lừa đảo, gạt gẫm là những chiêu trò nào?

Ngôn sứ giả là những người nhân danh Thiên Chúa, nhân danh là  người của Thiên Chúa chọn và sai đi để tung tin vịt, gieo rắc tin đồn thất thiệt làm hoang mang, nao núng niềm tin của dân chúng. Họ không nói điều Thiên Chúa muốn nói, nhưng nói điều họ muốn nói vì có lợi cho bản thân ; họ không được Thiên Chúa chọn, nhưng tự chọn và tự tấn phong ; họ không nhận từ Thiên Chúa sứ điệp để chuyển tải cho dân, nhưng lừa đảo dân bằng sứ điệp được sọan ra bởi chính họ. Tóm lại, họ tự phong cho mình chức ngôn sứ, tự gán cho mình quyền phát ngôn viên của Thiên Chúa, tự cho mình là gạch nối giữa Thiên Chúa và dân Ngài, trong khi tất cả đều không có thực, nhưng do ý nghĩ hoang tưởng, tham vọng bất chính, và khả năng lừa đảo của họ thực hiện, dàn dựng.

Nhưng làm thế nào để phân biệt ai là ngôn sứ thật và ai là ngôn sứ giả?

Câu chuyện tranh cãi giữa ngôn sứ Khanania và ngôn sứ Giêrêmia trong Cựu Ước cho chúng ta thấy phân định ngôn sứ giả và ngôn sứ thật là một công việc không dễ chút nào : Khi ấy ngôn sứ Khanania tuyên sấm rằng : “Đức Chúa các đạo binh, Thiên Chúa Ítraen phán như sau : Ta sẽ bẻ gẫy ách của vua Babylon. Còn hai năm nữa, Ta sẽ đem về nơi này mọi đồ dùng trong nhà Đức Chúa, mà Nabucôđônôxo, vua Babylon đã lấy ra khỏi nơi này đưa sang Babylon… Cả những người Giuđa bị lưu đày sang Babylon, chính Ta sẽ dẫn chúng về nơi đây, sấm ngôn của Đức Chúa, vì Ta sẽ bẻ gẫy ách của vua Babylon!”. Bấy giờ ngôn sứ Giêrêmia trả lời ngôn sứ Khanania… : Ước gì Người thực hiện các điều ông vừa tuyên sấm… Nhưng xin ông lưu ý đến những lời tôi sắp nói cho ông và toàn dân nghe đây : Các ngôn sứ có trước tôi và ông từ ngàn xưa đã tuyên sấm về nhiều xứ sở và vương quốc hùng mạnh, là sẽ có chiến tranh, tai ương và ôn dịch ; còn ngôn sứ nào tuyên sấm có bình an, thì chỉ khi nào lời ngôn sứ ấy ứng nghiệm, ông mới được nhìn nhận là ngôn sứ Đức Chúa sai đến thật sự!” (Gr 28,2-9).

Sau đó, ngôn sứ Khanania bẻ gẫy cái gông bằng gỗ ra khỏi cổ ngôn sứ Giêrêmia, như dấu chỉ Đức Chúa sẽ bẻ gẫy cái ách của Nabucôđônôxo, vua Babylon đè trên mọi dân tộc. Nhưng ngay sau đó, Đức Chúa phán với ngôn sứ Giêrêmia : “Hãy đi nói với Khanania như sau : Ngươi đã bẻ gẫy những cái gông bằng gỗ, thì hãy làm những cái gông bằng sắt thế vào!”, vì Đức Chúa không tháo ách thống trị của vua Babylon trên các dân tộc (x. Gr 28,12-14).

Ngôn sứ Giêrêmia liền đi nói với ngôn sứ Khanania : Ông Khanania, hãy nghe đây, Đức Chúa chẳng hề sai ông, thế mà ông lại làm cho dân này tin vào điều dối trá. Bởi thế, Thiên Chúa phán như sau : “Này, Ta sẽ bứng ngươi ra khỏi mặt đất : Ngay năm nay, ngươi sẽ phải chết, vì ngươi đã hô hào nổi loạn chống Đức Chúa. Ngôn sứ Khanania đã chết vào tháng bẩy năm ấy” (Gr 28,15-17).

Cuộc tranh cãi giữa hai ngôn sứ chắc chắn đã tạo thành hai phe chống nhau kịch liệt và tạo nên tình trạng chia rẽ rất trầm trọng trong Ítraen : một bên chuẩn bị hoà bình, vì Đức Chúa sắp bẻ gẫy gông cùm nô lệ của vua Babylon áp đặt trên dân theo sấm ngôn của ngôn sứ Khanania ; một bên biết mình phải tiếp tục sống cảnh nô lệ, lưu đầy vì Đức Chúa chưa tháo ách cho dân tộc này theo sấm ngôn của ngôn sứ Giêrêmia.

Đặt mình vào vị trí của dân Ítraen lúc bấy giờ, hầu hết chúng ta sẽ phấn khởi đứng về phiá ngôn sứ Khanania với sấm ngôn hoà bình sắp được tái lập, và ách nô lệ sắp được bẻ gẫy, hơn là nghe theo ngôn sứ Giêrêmia với sấm ngôn Ítraen phải tiếp tục chịu cảnh nô lệ, lưu đầy. Nhưng rất tiếc, sấm ngôn “tai hoạ” mới lại là điều Thiên Chúa muốn nói với dân.

Sự phân định còn rất khó, khi có những ngôn sứ không xuất hiện từ cơ chế tôn giáo luôn được coi là đáng tin cậy, mà xuất phát hoàn toàn ngoài cơ chế, và độc lập, tách biệt, đối nghịch với cơ chế.

Vì ở “ngoại vi cơ chế”, lại không chịu sự giám sát của vua chúa, tư tế, quan án, nên các ngôn sứ này bị coi như đối thủ của giai cấp và bộ máy lãnh đạo, nên gặp rất nhiều khó khăn, o ép từ cơ chế quyền lực.

Câu chuyện vua Giuđa và vua Ítraen, cả hai hợp đồng tiến đánh vua Aram để chiếm lại miền Ramốt Galaát. Trước khi quyết định tổng tấn công vua Aram, hai vua này đã tập họp khoảng bốn trăm ngôn sứ và hỏi ý kiến : “Ta có phải đi đánh Ramốt Galaát không hay là phải ngừng lại?”. Tất cả bốn trăm ngôn sứ “thuộc cơ chế” đồng thanh thưa : “Xin vua cứ tiến đánh, Chúa sẽ trao thành ấy vào tay vua”. Nhưng để nắm chắc phần thắng, vua Giuđa hỏi vua Ítraen : “Ở đây có còn ngôn sứ nào khác của Đức Chúa, để chúng ta nhờ ông thỉnh vấn Đức Chúa không?” Vua Ítraen trả lời : “Còn một người nữa chúng ta có thể nhờ thỉnh vấn Đức Chúa được, nhưng tôi ghét ông ta, vì ông ta không hề tiên báo cho tôi điều lành, mà chỉ toàn điều dữ”. Và người ta cho mời ngôn sứ Mikhagiơhu.

Vị ngôn sứ không được cơ chế “sủng ái, trọng dụng” này đã tuyên sấm hoàn toàn ngược lại : “Tôi đã thấy toàn thể Ítraen tán loạn trên núi như chiên không người chăn, Đức Chúa phán : chúng không còn chủ nữa”.

Vì tuyên sấm trái ý vua, với điềm dữ là cảnh bại trận, ngôn sứ Mikhagiơhu đã bị vua Ítraen ra lệnh : “Giam tên này vào nhà tù và cho nó ăn uống ít thôi, cho tới khi ta về bình an”. Nhưng khi lâm trận tại Ramốt Galaát, vua Itraen đã bị thương, máu ra nhiều “chảy cả vào lòng xe”, và vua chết ngay buổi chiều hôm đó (x. 1 V 22,1-38).     

Đó là sự thật lịch sử của dân Thiên Chúa được ghi lại trong Cựu Ước. Qua đó, chúng ta nhận ra phần nào những khó khăn khi phải phân định ai là ngôn sứ giả và ai là ngôn sứ thật của Thiên Chúa, và những khó khăn của dân Chúa ngày xưa đó cũng là những khó khăn của Giáo Hội ngày nay, khi nhiều luồng sấm ngôn khác nhau, đối nghịch nhau đang làm hoang mang tinh thần của dân Chúa.

Tạm gác ra một bên những hiện tượng lạ nổi lên như nấm khắp nơi trong Giáo Hội làm nhiều người Kitô hữu rơi vào tình trạng “bán tín bán nghi” giáo lý đức tin và nghi ngờ chính đức tin của mình, người viết chỉ tập trung trình bày một vấn đề then chốt, đó là tình trạng “vẽ Giáo Hội của nhiều thợ vẽ”, hiện thân của ngôn sứ giả của thời đại mới.

Tất nhiên những thợ vẽ này không vẽ tác phẩm của mình, cũng không tô lại cho đậm, hay vẽ lại cho đúng tác phẩm của người khác, nhưng lạm dụng tài vẽ của mình để làm hỏng tác phẩm của người khác bằng bôi lem luốc, vẽ nguyệch ngoạc, tô bừa bãi, thêm thắt, cắt xén lung tung theo ý mình, mà không chút ngượng ngùng trước tác giả, cũng như tác quyền bất khả xâm phạm.  

Trước hết, những thợ vẽ này tự nhận mình là người của Thiên Chúa sai đến để vẽ lại Giáo Hội, vì có những người trong số họ có chân trong cơ chế Giáo Hội, có khi lại giữ những vai trò trọng yếu, và có toàn quyền quyết định. Họ nhân danh Đức Giêsu để vẽ một Giáo Hội khác Giáo Hội của chính Ngài đã thiết lập trên nền móng Tông Đồ, như những ngôn sứ giả đã nhân danh Đức Chúa để tuyên sấm ý riêng mình, hay ý của một nhân vật, một đoàn thể, một tổ chức có “đơn đặt hàng” với họ, như bốn trăm ngôn sứ Ítraen đã đồng thanh tuyên sấm “chiến thắng” để làm vui lòng vua, hoặc sợ vua trừng phạt, hãm hại, nếu nói ngược ý vua.

Như những ngôn sứ giả có thể xuất thân từ đâu đó, hoặc ngay từ trong cơ chế Giáo Hội, những thợ vẽ này đã vẽ lại một giáo hội không có Đức Giêsu, là dung mạo đích thực của Chúa Cha giầu lòng thương xót, nhưng thay thế dung mạo yêu thương, bao dung, rộng lượng khoan hồng của người cha nhân hậu bằng dáng mạo của một ông chủ khó tính, khó gần, một quan chức hống hách, cửa quyền, một ông vua chỉ biết xây dựng, bảo vệ bằng mọi giá quyền bính, ngai vàng, và chẳng thiết tha gì đến hạnh phúc của dân ; những thợ vẽ tinh ma tráo đổi sự thánh thiện của Thiên Chúa không còn là lòng thương xót, nhưng đặt trên hoàn hảo của tổ chức, chặt chẽ của cơ cấu, kỷ cương, vỏ bọc hoành tráng, sức mạnh bành trướng bên ngoài ; những thợ vẽ tinh xảo đánh tráo Đức Giêsu hiền lành, khiêm nhường và thay bằng một thiên chúa khác toàn năng, toàn quyền sinh sát, thích trừng phạt hơn giáo huấn, tìm tiêu diệt hơn cứu sống, chữa lành.    

Như những ngôn sứ giả, những thợ vẽ đã gian xảo gột bỏ, tẩy xóa những  mầu sắc “phúc âm” của Hiến Chuơng Nước Trời, và thay thế tâm hồn nghèo khó bằng lòng dạ tham lam, trái tim hiền lành bằng lòng trí kiêu căng, khao khát công chính bằng bon chen bất chính, yêu mến hoà bình bằng  hơn thua đấu đá, phần thưởng Nước Trời bằng hư danh trần thế.

Và như những ngôn sứ giả, những thợ vẽ đã trắng trợn biến sứ vụ “được sai đi để phục vụ” như Đức Giêsu đã được Chúa Cha sai đến trong thế gian “không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28), thành đường lối của lãnh tụ thế gian dùng uy quyền mà thống trị, lấy bạo lực mà trấn áp.

Với cây cọ nhớp nhúa, trong bàn tay phù thủy của những anh thợ vẽ không còn tin, Giáo Hội của Đức Giêsu không còn có Đức Giêsu, Thiên Chúa của lòng thương xót, không còn Hiến Chương Nước Trời với Đất Hứa làm gia nghiệp,  Thiên Đàng là phần thưởng, với niềm ủi an cho người sầu khổ, hạnh phúc được nhìn thấy Thiên Chúa cho tâm hồn trong sạch, niềm vui được thưong xót cho người biết xót thương, và vinh dự được làm con Thiên Chúa cho người xây dựng hòa bình, và tương lai hằng phúc trong Vương Quốc đời đời cho những ai khao khát sống công chính và chịu sỉ vả, vu khống vì Đức Giêsu.

Khi kê ra việc làm của những người thợ vẽ Giáo Hội, chúng ta đừng xem đó là câu chuyện phiếm “vô thưởng vô phạt”, và cũng đừng vội vàng lên án là cường điệu qúa đáng những gì được mô tả, vì trong thực tế, người thợ vẽ  còn tồi tệ, nguy hiểm nhiều lần hơn, khi không để bị bại lộ hành vi thay thế hình ảnh, tráo đổi mầu sắc, giả mạo dung nhan Đức Giêsu và Giáo Hội. Họ là những thợ vẽ có tài, nên chỉ cần một thay đổi nhỏ thôi, Đức Giêsu không còn là Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người, Giáo Hội không còn là Giáo Hội của Đức Giêsu thiết lập, mà  bản chất và sứ mệnh của các chi thể của thân thể mầu nhiệm Giáo Hội là hiệp thông, hiệp nhất, “có Đức Giêsu trong cuộc đời”, làm chứng Đức Giêsu là Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ bằng yêu thương, phục vụ.

Họ cũng là những sứ ngôn giả và Thiên Chúa cũng sẽ hạch tội họ như đã hạch tội các ngôn sứ giả trong Cựu Ước : “Ta sẽ ra tay trừng phạt hạng ngôn sứ thấy thị kiến hão huyền và nói lời sấm dối trá… Bởi vì chúng đã làm cho dân Ta lạc đường, khi nói rằng : ‘Hoà Bình’, mà thực ra chẳng có hòa bình ; trong khi dân xây tường, thì chúng lại trát vôi lên tường...” (Ed 13,9.10).  

Thực vậy, khi Giáo Hội bị vẽ lại, tô lại, hoạ lại bởi những thợ vẽ của thế gian và Satan, thì không ít người sẽ rơi vào lầm lạc và  không còn tin vào Đức Giêsu, cũng như Giáo Hội của Ngài nữa. Vì thế, chúng ta cần thận trọng và khôn ngoan phân định để không rơi vào cạm bẫy các ngôn sứ giả của thời đại thường đội lốt những thợ vẽ “có tài”, bởi từ chính họ “mà sự vô đạo đã lan tràn khắp xứ” (Gr 23,15), như Lời Thiên Chúa phán : “Đừng nghe lời các ngôn sứ tuyên sấm, chúng phỉnh phờ các ngươi, điều chúng nói chỉ là thị kiến do tưởng tượng, chứ không phải do miệng Đức Chúa phán ra”, vì “Ta đã không phái các ngôn sứ ấy đi, thế mà chúng lại đi! Ta đâu có bảo chúng, thế mà chúng lại nói tiên tri!” (Gr 23,21), cũng như chẳng ai nhờ thợ vẽ “tô vẽ lại” dung mạo Đức Giêsu và Giáo Hội của Ngài, hiện tượng đang làm nhiều người hoang mang, mất hướng.

Nhưng có thực chúng ta chỉ là nạn nhân của hiện tượng ngôn sứ giả, mà không là tác nhân của hiện tượng “nhảm nhí nói tiên tri”, và nhiều người  đang là nạn nhân của chúng ta? Có thực chúng ta chỉ là những người chịu hậu qủa tai hại của những anh thợ vẽ đang bôi bác, bôi nhọ, “bôi tro trát trấu” khuôn mặt Đức Giêsu, mà không là chính thợ vẽ đã vẽ lại Giáo Hội và gây tai hoạ khủng khiếp cho nhiều người, khi đẩy họ đến tình trạng ngao ngán Giáo Hội, từ bỏ Giáo Hội, lên án Giáo Hội, vì Giáo Hội không còn “nguyên hình nguyên trạng” như chân dung Giáo Hội do chính tay Đức Giêsu vẽ nên? Có thực chúng ta chỉ là ngôn sứ đích thực do ơn sủng và sứ vụ nhận được từ bí tích Rửa Tội, mà không là ngôn sứ giả đã bừa bãi tuyên sấm vì mị dân, vì cơ đồ cá nhân, vì để được lòng bề trên, lãnh đạo? Và có thực chúng ta ý thức về đời sống kiêu căng, giả hình, gian ác, tham lạm, hưởng thụ, ăn không nói có, thiếu bác ái, từ tâm, bừa bãi quyết đoán, dễ dàng chụp mũ, vu khống, đổ tội cho người khác, không quan tâm đến người nghèo, không phục vụ như sứ vụ được trao, không coi việc loan báo Tin Mừng là căn tính của người Kitô hữu, nhất là không lương thiện, trung thực trong khi hành xử quyền bính, bởi đây chính là những việc làm của ngôn sứ giả, những đường sơn, nét bút của người thợ vẽ đang làm hoen ố dung mạo Đức Giêsu, và suy yếu thân thể mầu nhiệm là Giáo Hội?

Vâng, ngày xưa hay ngày nay đều có những ngôn sứ giả, những anh thợ vẽ, nhưng ai là ngôn sứ giả, ai là thợ vẽ, thì qủa thực rất khó nhận diện. Chỉ với ơn của Chúa Thánh Thần, chúng ta mới có thể phân định, vì những con người giả dối, giả hình, giả danh, giả dạng, giả mạo, “giả nhân giả nghiã” này rất ma mãnh, khéo léo và tài tình đến mức kinh dị khó lường.

Chúng ta cầu nguyện cho Giáo Hội trong cơn lốc xóay của nhiều thế lực Satan và thế gian trong đó hiện tượng ngôn sứ giả và thợ vẽ đang góp phần không nhỏ làm tăng tốc lốc xoáy và đè nặng hơn trên Giáo Hội sức nặng chia rẽ, phá họai.

Jorathe Nắng Tím