Pages - Menu

Chủ Nhật, 26 tháng 8, 2018

LOAN BÁO TIN MỪNG VÀ SỐNG TIN MỪNG ĐƯỢC LOAN BÁO


LOAN  BÁO  TIN MỪNG VÀ SỐNG TIN MỪNG  ĐƯỢC LOAN  BÁO
   “Loan báo Tin Mừng là quyền và bổn phận  mà không ai có thể từ chối”
     Đó là lời Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI  tuyên bố tại Vatican ngày 17 tháng 5 năm 2008
Tin Mừng của Đức Giêsu là một phần của Tân Ước gồm bốn cuốn được viết bởi các thánh  Mátthêu, Máccô, Luca và Gioan  kể về  Đức Giêsu Kitô.
       Trong tiếng Hy Lạp, loan báo Tin Mừng có nghiã  “làm cho ai đó được biết một tin vui”, và  cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên đã dùng để  chỉ việc loan báo cho mọi người  tin vui :  Đức Giêsu Kitô  đã sống lại từ cõi chết.
     Các tín hữu tiên khởi đã không coi việc loan báo Tin Mừng Đức Kitô đã sống lại như công tác tuyên truyền về một giáo thuyết phải học thuôc lòng,  hoặc mời mọc người khác nghiền ngẫm, suy tư về  nội dung một tác phẩm dậy sự khôn ngoan như các triết gia thời đó, nhưng trước hết và trên hết, loan báo Tin Mừng là làm chứng về một biến đổi nội tâm nơi mỗi người nhờ sự phục sinh của Đức Kitô, và qua sự phục sinh của Ngài, toàn thể nhân loại sẽ được sống lại.
     Tin Mừng  vẽ lại chân dung của Đức Giêsu, Đấng đã gặp rất nhiều người và với ai Ngài cũng tỏ lòng kính trọng, yêu thương, trìu mến. Đáng chú ý hơn cả là thái độ khiêm nhường, hạ thấp mình xuống ngang hàng những người yếu đuối, hèn mọn  nhất, để không một ai bị bỏ rơi, lãng quên dưới ánh mắt nhân hậu của Thiên Chúa. Đức Giêsu còn ở với con người trong chính sự chết, để mỗi người nhờ ở với Ngài được đi vào  hiệp thông với Thiên Chúa Cha.Vì thế, ngay từ buổi đầu của Giáo Hội, các tín hữu đã loan báo Tin Mừng  trong niềm vui của những người được đón nhận và tháp nhập trong Thiên Chúa, với niềm xác tín : “Thiên Chúa làm người để con người được làm Thiên Chúa”.
       Từ  ý nghiã thần học này, loan báo Tin Mừng không chỉ là nói với người khác về Đức Giêsu, nhưng còn là giúp mọi người nhận ra giá trị của họ dưới mắt Thiên Chúa, và chuyển tải đến từng người lời của ngôn sứ Isaia: “Ta đã gọi con bằng chính tên con: con là của riêng Ta... Vì trước mắt Ta, con thật qúy giá, vốn được Ta trân trọng và mến thương” (Is 43,1.4), để rồi khởi đi từ buổi sáng phục sinh rực rỡ ấy, chúng ta biết Thiên Chúa đã không ngần ngại trao ban tất cả để không bao giờ chúng ta có thể quên “mỗi người là tất cả của Thiên Chúa, mỗi người là giá trị không thể hoán nhượng đối với Thiên Chúa”. 
       Sở dĩ con người được là giá trị tuyệt vời dưới mắt Thiên Chúa, vì con người có tự do, và tự do này phải được tôn trọng.Vì thế, loan báo Tin Mừng không thể trở thành một công tác nhồi sọ, tẩy não, nhưng là lời mời  hiệp thông  với Đức Giêsu, bởi sau khi sống lại, Đức Giêsu Kitô đã giao hoà, nối kết, hiệp nhất tất cả nhân loại trong Thiên Chúa. Được mời gọi hiệp thông với chính Thiên Chúa, việc loan báo Tin Mừng phải được bắt đầu bằng sự gắn bó thiết thân của mỗi người với Đức Giêsu, như thánh Phaolô đã viết : “Anh em đã mặc lấy Đức Kitô” (Gl 3,27).Vì thế, bằng chính đời sống, chứ không chỉ bằng lời nói, chúng ta làm chứng  Đức Kitô phục sinh, Đấng biến đổi chúng ta “nhờ được thông phần  những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết”  (Pl 3,10-11). Chính nhờ niềm tin và niềm vui được yêu thương và hiệp thông trong Đức Kitô của chúng ta, mà Đức Kitô được trở nên “đáng tin cậy, đáng yêu mến” dưới mắt những ai chưa nghe biết về Ngài. 
      Sau hết, loan báo Tin Mừng đòi chúng ta đặt trọn tin tưởng ở Chúa Thánh Thần, “Đấng sẽ dậy anh em biết những điều phải nói” (Lc 12, 12).
       Vài nét chính yếu về sứ vụ loan báo Tin Mừng vừa chia sẻ trên phần nào đã cho chúng ta thấy nội dung, ý nghiã, mục đích, và phương cách của việc loan báo Tin vui Đức Kitô đã sống lại. Trong  phần dưới này, chúng ta sẽ cùng nhau mở rộng, triển khai: 
1. Loan Báo Tin Mừng là Loan Báo chính Đức Giêsu.
   Mục đích của việc loan báo Tin Mừng là Đức Giêsu, đối tượng của Tin Mừng là Đức Giêsu, nên toàn bộ nội dung của Tin Mừng cũng là chính Đức Giêsu. Tin mừng không loan báo gì ngoài Đức Giêsu, không nhắm đến ai ngoài Đức Giêsu, không tìm kiếm người nào ngoài Đức Giêsu. Đức Giêsu là duy  nhất của Tin Mừng. Từ Đức Giêsu và chung quanh Đức Giêsu, mọi sự, mọi việc, mọi người được khởi đi và tập trung, quy chiếu.
a. Loan báo lý lịch của Đức Giêsu:
     Trước hết Tin Mừng loan báo nguồn gốc, lý lịch của Đức Giêsu: Thiên Chúa làm người.
“Ngài là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh Sáng bởi Ánh Sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành” (Kinh Tin Kính);  Ngài ngự bên hữu Đức Chúa Cha vì là Con Đức Chúa Cha (Cv 9,20) như “Đức Chúa đã phán cùng Chúa Thượng tôi: Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt làm bệ dưới chân Con; Vậy tòan thể nhà Ítraen phải biết chắc điều này: Đức Giêsu mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô” (Cv 2,34-36).
      Là Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, nhưng “vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, Người đã từ Trời xuống thế” (Kinh Tin Kính).
     Như thế, lý lịch chính xác của Đức Giêsu mà Kinh Tin Kính chúng ta tuyên xưng chính là Ngài vừa là Thiên Chúa vừa là con người. Trong tất cả các thánh lễ, sau khi Truyền Phép, chúng ta cùng chủ tế và toàn thể Hội Thánh long trọng tuyên xưng : “Lậy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến!”.
       Loan truyền Đức Giêsu chịu chết là loan báo Đức Giêsu là con người, vì chỉ con người mới phải chết, Thiên Chúa không chết bao giờ, vì Ngài là nguồn sự sống, đồng thời tuyên xưng Đức Giêsu sống lại là tuyên tín Đức Giêsu là Thiên Chúa. Đó là nội dung đức tin của Phêrô đã tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16), mà suốt đời người Kitô hữu không ngừng loan báo và tuyên xưng, như căn tính, sứ vụ và ơn cứu rỗi của họ, bởi “thật chính đáng, công bình và sinh ơn cứu độ cho  phần rỗi chúng ta” (Kinh Tiền Tụng).
b.  Loan báo cuộc đời và sứ vụ của Đức Giêsu.     
     Cuộc đời của Đức Giêsu là cuộc đời vâng phục thánh ý Chúa Cha, Đấng đã sai Ngài đến trong thế gian để yêu thương và cứu độ. Tất cả những gì Ngài làm, trong bất cứ hoàn cảnh nào đều làm theo ý Thiên Chúa Cha: “Lậy Cha, xin đừng theo ý con, nhưng theo ý Cha mọi đàng” (Lc 22, 42). Thánh ý Chúa Cha là lẽ sống, lý do có mặt của Đức Giêsu trên trần gian này, ngoài ra không còn một lý do hiện hữu nào khác, chính Đức Giêsu đã khẳng định trước đám đông người Do Thái đang khi họ xầm xì thắc mắc về nguồn gốc và sứ mệnh của Ngài: “Tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi, mà ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Nguời đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy và tin tôi, thì sẽ được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6,38-40). Và Đức  Giêsu đã thực hiện trọn vẹn thánh ý của Cha Ngài với lòng vâng phục tuyệt đối cho đến chết và chết trên thập giá (Pl 2,8).
       Qủa thực, không còn gì rõ hơn, và không ai có thể  xuyên tạc, bẻ cong lẽ sống của Đức Giêsu khi xuống thế làm người, sống như con người. Cũng từ lẽ sống đó, Đức Giêsu thi hành sứ vụ của Đấng Cứu Thế mà ngôn sứ Isaia đã  báo trước: “Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghẻo hèn.Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19). Sứ vụ cứu thế đó đã được  Đức Giêsu thể hiện qua nếp sống gần gũi, thái độ ân cần cởi mở, thân thiện với mọi người, không loại trừ  ai. Sứ mệnh cứu thế còn được thực hiện qua các phép lạ chữa nhiều người bệnh tật, cho người chết sống lại, xua đuổi tà thần khỏi những người bị chúng khống chế, cho người chết sống lại, “kêu gọi sám hối và tin vào Tin Mừng”  (Mc 1,15) và nhất là ban lòng Thương Xót và  Bình An của Ngài cho tất cả những ai đến với Ngài (x. Lc 15; Ga 8,1-11; 14,27).   
2. Tin Mừng đến từ Thiên Chúa Ba Ngôi.  
     Tin Mừng mà Đức Giêsu loan báo không là sản phẩm của con người, nhưng xuất phát từ chính Ba Ngôi Thiên Chúa, nói cách khác, đó là Tin Mừng của Thiên Chúa Ba Ngôi : Khi Đức Giêsu chịu phép rửa xong, vừa  lên khỏi nước, thì các tầng trời mở ra và Người thấy Thần Khí Thiên Chúa như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Con” (Mc 1,9-11).
     Cảnh tượng kỳ diệu trên muốn làm chứng  Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Ngôi Hai Thiên Chúa và Tin Mừng của Ngài loan báo cho nhân loại chính là Tin Mừng của cả Ba Ngôi : Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần:
       Tầng trời mở ra là dấu chỉ Thiên Chúa Cha  đến với con người và nói với con người qua Đức Giêsu, Con Một của Ngài.Thiên Chúa không tự giam mình trong tủ kính, pháo đài, nhưng mở ra, mặc khải, đến gần, ở với để nói với, lắng nghe, đón tiếp, yêu thương, cứu độ con người, vì Thiên Chúa của Đức Giêsu là Thiên Chúa say mê con người và không muốn bất cứ ai lạc mất Ngài, bởi tất cả mọi người đều đã được sinh ra cho Thiên Chúa.
      Thần Khí Thiên Chúa dưới hình chim bồ câu ngự xuống là hình ảnh Chúa Thánh Thần. Ngài là dây liên kết, hiệp thông vì Ngài là Tình Yêu của Thiên Chúa Cha và Thiên Chúa Con. Nơi Ngài có  Bình An, Trong Trắng và  Êm Ái - Dịu Ngọt  của  Ba Ngôi Thiên Chúa.
    Tiếng phán từ trời:  “Con là Con yêu dấu của Ta” biểu lộ tình yêu và hiệp thông tuyệt đối giữa Chúa Cha và Chúa Con.
     Vì thế, Tin Mừng của Đức Giêsu là Tin Mừng của Chúa Cha, và cũng là Tin Mừng của Chúa Thánh Thần. Suốt cuộc đời và xuyên suốt sứ vụ của Đức Giêsu ở trần gian, Chúa Cha và Chúa Thánh Thần luôn  có mặt và cùng hoạt động với Ngài.
3.  Tất cả mọi người được mời gọi đón nhận Tin Mừng và lên đường loan báo Tin Mừng. 
     Tin Mừng là Tin Mừng của Thiên Chúa gửi đến toàn thể nhân loại, cho tất cả mọi người, không trừ ai, tuyệt đối không khoanh vùng, hay thiết lập biên cương, áp đặt ranh giới đối với bất cứ sắc dân, văn hoá, trình độ, giai cấp, lãnh thổ nào.Vì là Tin Mừng của Thiên Chúa cho loài người để cứu độ loài người, nên quyền đón nhận Tin Mừng, quyền hưởng ơn cứu độ nhờ tin vào Tin Mừng là quyền bất khả xâm phạm của mọi người và mỗi người. Đó là nhân quyền, quyền căn bản của con người,  vì con người được sinh ra từ Tình Yêu  Thiên Chúa nên có quyền  hưởng hạnh phúc từ Tin Mừng “được Thiên Chúa yêu thương”.
     Vì thế, Tin Mừng đã được Đức Giêsu rao giảng không chỉ cho Ítraen, mà còn cho các vùng dân ngoại, không thuộc  Ítraen. Và điều kỳ diệu là ngoài những tông đồ (Lc 9,12), môn đệ  (Lc 10,9) được sai đi, Ngài sai cả những người ngoại đạo đi loan báo Tin Mừng giữa anh em của họ. Điều này có thể làm chúng ta bỡ ngỡ, vì qủa thực, không ít người trong chúng ta  chung một ý nghĩ : chỉ có hàng Giáo Phẩm, Giáo Sĩ và Tu Sĩ mới có quyền và có khả năng loan báo Tin Mừng, còn những người khác, việc loan báo Tin Mừng chỉ là thứ yếu, phụ thuộc, lệ thuộc và rất dễ bị người khác lên án: lấn sân, lộn chuồng, lạc vào vùng cấm địa. Một vài đoạn Tin Mừng sau đây làm chứng điều này: Đức Giêsu với người đàn bà xứ Samari (Ga 4, 7-30):
       Người đàn bà này là dân thuộc vùng thù nghịch với Ítraen, nên khi Đức Giêsu xin chị chút nước uống, chị ta đã sững sờ, hoảng hốt nói: “Ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông uống nước sao ? Qủa thế, người Do Thái không được phép giao thiệp với người Samari” (Ga 4,9). Sau chuyện dài tâm sự về cuộc đời đã qua với nhiều người chồng, chị được Đức Giêsu cảm hóa bằng ân huệ của chính Tin Mừng là Ngài, khi nói với chị : “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây”, “Đấng Mêsia, gọi là Đức Kitô” mà chị đi tìm, nay chị đã được gặp (Ga 4,25-26). Và chị là một trong những người ngoài Do Thái đã được gặp gỡ Đức Giêsu là Tin Mừng của Thiên Chúa. 
      Nhưng điều làm chúng ta không khỏi ngạc nhiên, và sung sướng khi người đàn bà Samari đã trở thành người loan báo Tin Mừng, sau khi đón nhận Tin Mừng: “Có nhiều người Samari trong thành đó đã tin vào Đức Giêsu, vì lời người đàn bà làm chứng: ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm” (Ga 4, 39). Đức Giêsu đã ở lại trong thành này hai ngày và "số người tin vào lời Đức Giêsu còn đông hơn nữa" (Ga 4,41).
      Người đàn bà ngoại đạo xứ Canaan (Mt 15,21-28):
      Bà là người ngoại đạo đã đến năn nỉ Đức Giêsu dủ lòng thương xót chữa con gái bà bị qủy ám. Dù bị thử thách, khi Đức Giêsu xem ra như không muốn cứu giúp con bà, nhưng bà vẫn cứ nhẫn nại kêu xin, và Đức Giêsu đã công khai khen ngợi lòng tin của bà : “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được như vậy" (Mt 15, 28). Lời khen của Đức Giêsu đã nói lên sự chân thành đón nhận Tin Mừng của người đàn bà ngoại giáo.Bà đã tin, tức “đã nhận Đức Giêsu là Cứu Chúa của bà và thực sự Chúa đã cứu con gái bà khỏi bệnh” (Mt 15,28). Con đường từ nhà bà đến gặp Đức Giêsu là con đường lãnh nhận Tin Mừng, và con dường trở lại nhà từ điểm gặp gỡ  Đức Giêsu sau khi được Ngài cho biết : “Bà cứ về đi, qủy đã xuất khỏi con gái bà rồi” (Mc 7,29) đã là con đường loan báo Tin Mừng, loan truyền Đức Kitô, Đấng Cứu Thế của bà.
      Đón nhận Tin Mừng vì thế luôn bao hàm  sứ mệnh loan báo Tin Mừng, bởi bất cứ ai chân thành và lương thiện sẽ không thể không kể cho người khác nghe những gì họ đã thấy, đã nghe, đã nhận được từ Đấng đã yêu thương và cứu giúp mình.  Đó cũng là nghiã vụ của một lương tâm lành mạnh và trưởng thành. Người bị qủy ám ( Mc 5,1-20).
      Trong câu chuyện chữa người bị qủy ám ở vùng Ghêrasa, cũng thuộc vùng đất dân ngoại, Đức Giêsu đã minh nhiên bảo anh phải loan báo Tin Mừng, nghiã là trở về kể lại cho gia đình của anh biết mọi điều Ngài đã làm cho anh: “Khi Người xuống thuyền, thì kẻ trước kia đã bị qủy ám đã nài xin cho được ở với Người, nhưng Người không cho phép, Người bảo: Anh cứ về nhà với thân nhân, và thuật lại cho họ biết mọi điều Chúa đã làm cho anh, và Người đã thương anh như thế nào”. Anh ta ra đi và bắt đầu rao truyền trong miền Thập Tỉnh tất cả những gì Đức Giêsu đã làm cho anh. Ai nấy đều kinh ngạc. (Mc 5,18-20).
       Thật không ai ngờ Đức Giêsu đã sai cả những người ngoại đạo đi loan báo Tin Mừng và họ đã loan báo hữu hiệu, bằng cớ là nguiời đàn bà xứ Samari đã làm xôn xao cả làng, đến nỗi dân làng đã năn nỉ Đức Giêsu ở lại với họ; còn người bị qủa ám này thì tự nguyện đi làm nhà truyền giáo loan báo Tin Mừng khắp miền Thập Tỉnh và nhiều người biết đến những điều kỳ diệu Thiên Chúa đang làm cho họ.
     Ở đây, chúng ta còn được Đức Giêsu chính thức dạy cho biết loan báo Tin Mừng là gì, để không ai còn hồ nghi hay phải  tìm kiếm ở đâu hay với ai khác nội dung của bài sai: Hãy đi và “thuật lại mọi điều Thiên Chúa làm cho anh và Người đã thương anh thế nào” (Mc 5, 19) .Ôi thật dễ thương bài sai tràn đầy hồng ân của Tình Yêu Thiên  Chúa, và hạnh phúc biết bao cho những môi miệng và cuộc đời  say mê loan báo việc kỳ diệu Chúa làm và kể lại  tình thương bao la của Ngài.
      Với một vài đoạn Tin Mừng tiêu biểu trong số rất nhiều đọan Tin Mừng khác, chúng ta có thể nhận ra quyền được loan báo Tin Mừng và sứ vụ loan báo Tin Mừng không dành cho riêng ai, nhưng là quyền lợi và nghiã vụ của tất cả mọi người, kể cả những người ngoại đạo, vì trong mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa, họ cũng được thừa hưởng quyền làm Con , bởi họ được sinh ra từ Thiên Chúa và quy hướng một cách tự nhiên về Ngài, khi Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người khả năng biết rằng có Thiên Chúa và khả năngphân biệt tốt - xấu, lành - dữ.
4.  Trên đường loan báo Tin Mừng:
a.   Chúng ta không cô đơn:   
      Trước hết, trên đường loan báo Tin Mừng, chúng ta có Đức Giêsu đồng hành và chúng ta được ở với Ngài (Ga 1,39), ăn với Ngài khi Ngài hoá bánh ra nhiều (Mc 6, 39-42), uống với Ngài ở tiệc cưới Cana (Ga 2,1-11), nghỉ ngơi với Ngài như Ngài đã bảo các tông đồ: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6,31), học với Ngài, được Ngài ủi an, nâng đỡ khi thất vọng, buồn chán “vì tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và kiêm nhường.Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng.Vì ách của tôi êm ái và gánh của tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30). Trên đường Emmau, hai môn đệ đã chẳng còn thiết đến sự gì, sau khi Thầy bị đóng đinh, chôn trong mồ, nhưng chính lúc ê chề thảm hại chính là lúc “Đức Giêsu tiến đến gần và đi với họ” (Lc 24,15).Ngài còn ở lại ăn tối với hai môn đệ khi “trời đã xế chiều và ngày đã tàn”, xế chiều như hồn người tông đồ hoang phế tuyệt vọng, và tàn như  ngày tàn của cơ đồ Cứu Thế (x. Lc 24,13-35), để rồi sau khi nhận ra Đức Giêsu “khi Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ”  (Lc 24,30),  “họ đứng dậy, quay trở lại Giêrusalem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. Những người này bảo hai ông : Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Simon.Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xẩy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh” (Lc 24,33-35).
        Đi theo Đức Giêsu, ở với Đức Giêsu, loan báo Tin Mừng như Đức Giêsu, người môn đệ cũng sẵn sàng chịu đau khổ và chết với Đức Giêsu vì đường Tin Mừng là đường Thánh Giá, và lời chứng hùng hồn nhất của Tình Yêu là chết cho người mình yêu.Thánh Phaolô đã thâm tín về sự sẵn sàng của người tông đồ với niềm hân hoan phó thác  trên hành trình theo Đức Giêsu: “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người”  (2Tm 2,11-12) 
     Người loan báo Tin Mừng vì thế  không cô đơn vì có Đức Giêsu trên suốt hành trình, mà còn có anh em cùng lên đường, chia sẻ,  tương thân tương trợ, như hình ảnh Nhóm Mười Một tụ họp, quây quần kể cho nhau nghe việc mình đã nhận ra Đức Giêsu phục sinh.
b. Chúng ta không lạc hậu, lỗi thời   
 Nhiều người cho rằng loan báo Tin Mừng là việc làm hết sức  lỗi thời, vì Tin Mừng chỉ là những câu chuyện về một con người đã chết từ hơn hai ngàn năm nay, và những sự kiện của hai ngàn năm trước hẳn đã không còn hợp với thời đại, không đáp ứng những thao thức, băn khoăn, đòi hỏi của thế giới hôm nay. Nhưng với chúng ta, những người Kitô hữu thì Tin Mừng không bao giờ là Tin Mừng của quá khứ, Tin Mừng cổ hủ, lạc hậu,  nhưng luôn là Tin Mừng của hôm nay cho những người đang sống, vì “Đức Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi mãi đến muôn đời” (Dt 13,8); vì  Tin Mừng vẫn mãi là Tin Mừng đến từ Thiên Chúa Ba Ngôi cho toàn thể nhân loại mọi nơi, mọi thời cho đến tận thế. Đàng khác, chính “Đức Giêsu là Thiên Chúa hằng sống muôn đời, nên phẩm vị tư tế của Người tồn tại mãi mãi. Do đó, Người có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Người mà tiến lại gần Thiên Chúa. Thật vậy Người hằng sống để chuyển cầu cho họ” (Dt 7, 24-25).  
Bên cạnh đó, những giá trị của Tin Mừng thì bất biến như Tình Yêu thương xót, Tình Yêu quên mình, Tình Yêu phục vụ, cũng như đòi hỏi của Tin Mừng thì luôn cần thiết cho mọi người của mọi thời đại, vì chạm đến chính trái tim của mỗi người để trái tim con người được hoà giải với trái tim của Thiên Chúa. (x. 2 Cr 5, 20).
 Người loan báo Tin Mừng vì thế không là người kể chuyện cổ tích, hoang đường, hay nói những chuyện vu vơ, mây gió xa rời thực tế sống, nhưng họ là những người hạnh phúc vì được chính “Tình Yêu Đức Kitô thúc bách” (2 Cr 5,14), để “trở nên mọi sự cho mọi người” (1 Cr 9,22),  khi đi theo và sống chết với Đức Giêsu cho sứ vụ Loan Báo Tin Mừng : Thiên Chúa yêu thương và cứu độ mọi người (1Ga 4, 9; 1Tm 2,4).
Để kết thúc bài chia sẻ, tưởng không gì ấn tượng và thôi thúc chúng ta hơn là lời trần tình “trở nên tất cả cho mọi người” để Tin Mừng được loan báo của thánh Phaolô, Tông Đồ dân ngoại: "Phải, tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người. Với người Do Thái, tôi đã trở nên Do Thái, để chinh phục người Do Thái. Với những ai sống theo Lề Luật, tôi đã trở nên người sống theo Lề Luật, dù không còn phải sống theo Lề Luật nữa, để chinh phục những người sống theo Lề Luật. Đối với những kẻ sống ngoài Lề Luật, tôi đã trở nên người sống ngoài Lề Luật, dù tôi không sống ngoài  luật Thiên Chúa, nhưng sống trong luật Đức Kitô, để chinh phục những người sống ngoài Lề Luật. Tôi đã  trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để  cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng" (1Cr 9, 19-23).
        Và như thế, “thật vô phúc cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!”  (1Cr 9,16)
Jorathe Nắng Tím