LOAN
BÁO TIN MỪNG VÀ SỐNG TIN MỪNG ĐƯỢC LOAN
BÁO
“Loan báo Tin Mừng là quyền và bổn phận mà không ai có thể từ chối”
Đó là lời Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI tuyên bố tại Vatican ngày 17 tháng 5 năm 2008
Tin Mừng của Đức Giêsu là một phần của Tân
Ước gồm bốn cuốn được viết bởi các thánh
Mátthêu, Máccô, Luca và Gioan kể
về Đức Giêsu Kitô.
Trong
tiếng Hy Lạp, loan báo Tin Mừng có nghiã
“làm cho ai đó được biết một tin vui”, và cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên đã dùng để chỉ việc loan báo cho mọi người tin vui :
Đức Giêsu Kitô đã sống lại từ cõi
chết.
Các
tín hữu tiên khởi đã không coi việc loan báo Tin Mừng Đức Kitô đã sống lại như
công tác tuyên truyền về một giáo thuyết phải học thuôc lòng, hoặc mời mọc người khác nghiền ngẫm, suy tư về nội dung một tác phẩm dậy sự khôn ngoan như
các triết gia thời đó, nhưng trước hết và trên hết, loan báo Tin Mừng là làm chứng
về một biến đổi nội tâm nơi mỗi người nhờ sự phục sinh của Đức Kitô, và qua sự
phục sinh của Ngài, toàn thể nhân loại sẽ được sống lại.
Tin
Mừng vẽ lại chân dung của Đức Giêsu, Đấng
đã gặp rất nhiều người và với ai Ngài cũng tỏ lòng kính trọng, yêu thương, trìu
mến. Đáng chú ý hơn cả là thái độ khiêm nhường, hạ thấp mình xuống ngang hàng
những người yếu đuối, hèn mọn nhất, để
không một ai bị bỏ rơi, lãng quên dưới ánh mắt nhân hậu của Thiên Chúa. Đức
Giêsu còn ở với con người trong chính sự chết, để mỗi người nhờ ở với Ngài được
đi vào hiệp thông với Thiên Chúa Cha.Vì
thế, ngay từ buổi đầu của Giáo Hội, các tín hữu đã loan báo Tin Mừng trong niềm vui của những người được đón nhận
và tháp nhập trong Thiên Chúa, với niềm xác tín : “Thiên Chúa làm người để con
người được làm Thiên Chúa”.
Từ ý nghiã thần học này, loan báo Tin Mừng không
chỉ là nói với người khác về Đức Giêsu, nhưng còn là giúp mọi người nhận ra giá
trị của họ dưới mắt Thiên Chúa, và chuyển tải đến từng người lời của ngôn sứ
Isaia: “Ta đã gọi con bằng chính tên con: con là của riêng Ta... Vì trước mắt
Ta, con thật qúy giá, vốn được Ta trân trọng và mến thương” (Is 43,1.4), để rồi
khởi đi từ buổi sáng phục sinh rực rỡ ấy, chúng ta biết Thiên Chúa đã không ngần
ngại trao ban tất cả để không bao giờ chúng ta có thể quên “mỗi người là tất cả
của Thiên Chúa, mỗi người là giá trị không thể hoán nhượng đối với Thiên Chúa”.
Sở
dĩ con người được là giá trị tuyệt vời dưới mắt Thiên Chúa, vì con người có tự
do, và tự do này phải được tôn trọng.Vì thế, loan báo Tin Mừng không thể trở
thành một công tác nhồi sọ, tẩy não, nhưng là lời mời hiệp thông
với Đức Giêsu, bởi sau khi sống lại, Đức Giêsu Kitô đã giao hoà, nối kết,
hiệp nhất tất cả nhân loại trong Thiên Chúa. Được mời gọi hiệp thông với chính
Thiên Chúa, việc loan báo Tin Mừng phải được bắt đầu bằng sự gắn bó thiết thân
của mỗi người với Đức Giêsu, như thánh Phaolô đã viết : “Anh em đã mặc lấy Đức
Kitô” (Gl 3,27).Vì thế, bằng chính đời sống, chứ không chỉ bằng lời nói, chúng
ta làm chứng Đức Kitô phục sinh, Đấng biến
đổi chúng ta “nhờ được thông phần những
đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người
với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết” (Pl 3,10-11). Chính nhờ niềm tin và niềm vui
được yêu thương và hiệp thông trong Đức Kitô của chúng ta, mà Đức Kitô được trở
nên “đáng tin cậy, đáng yêu mến” dưới mắt những ai chưa nghe biết về Ngài.
Sau
hết, loan báo Tin Mừng đòi chúng ta đặt trọn tin tưởng ở Chúa Thánh Thần, “Đấng
sẽ dậy anh em biết những điều phải nói” (Lc 12, 12).
Vài
nét chính yếu về sứ vụ loan báo Tin Mừng vừa chia sẻ trên phần nào đã cho chúng
ta thấy nội dung, ý nghiã, mục đích, và phương cách của việc loan báo Tin vui Đức
Kitô đã sống lại. Trong phần dưới này,
chúng ta sẽ cùng nhau mở rộng, triển khai:
1. Loan
Báo Tin Mừng là Loan Báo chính Đức Giêsu.
Mục đích của việc loan báo Tin Mừng là Đức
Giêsu, đối tượng của Tin Mừng là Đức Giêsu, nên toàn bộ nội dung của Tin Mừng
cũng là chính Đức Giêsu. Tin mừng không loan báo gì ngoài Đức Giêsu, không nhắm
đến ai ngoài Đức Giêsu, không tìm kiếm người nào ngoài Đức Giêsu. Đức Giêsu là
duy nhất của Tin Mừng. Từ Đức Giêsu và
chung quanh Đức Giêsu, mọi sự, mọi việc, mọi người được khởi đi và tập trung,
quy chiếu.
a. Loan
báo lý lịch của Đức Giêsu:
Trước
hết Tin Mừng loan báo nguồn gốc, lý lịch của Đức Giêsu: Thiên Chúa làm người.
“Ngài là Thiên
Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh Sáng bởi Ánh Sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật
được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha, nhờ
Người mà muôn vật được tạo thành” (Kinh Tin Kính); Ngài ngự bên hữu Đức Chúa Cha vì là Con Đức
Chúa Cha (Cv 9,20) như “Đức Chúa đã phán cùng Chúa Thượng tôi: Bên hữu Cha đây,
Con lên ngự trị để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt làm bệ dưới chân Con; Vậy tòan
thể nhà Ítraen phải biết chắc điều này: Đức Giêsu mà anh em đã treo trên thập
giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô” (Cv 2,34-36).
Là
Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, nhưng “vì loài người chúng ta và để cứu rỗi
chúng ta, Người đã từ Trời xuống thế” (Kinh Tin Kính).
Như
thế, lý lịch chính xác của Đức Giêsu mà Kinh Tin Kính chúng ta tuyên xưng chính
là Ngài vừa là Thiên Chúa vừa là con người. Trong tất cả các thánh lễ, sau khi
Truyền Phép, chúng ta cùng chủ tế và toàn thể Hội Thánh long trọng tuyên xưng :
“Lậy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho
tới khi Chúa đến!”.
Loan truyền Đức Giêsu chịu chết là loan báo Đức
Giêsu là con người, vì chỉ con người mới phải chết, Thiên Chúa không chết bao
giờ, vì Ngài là nguồn sự sống, đồng thời tuyên xưng Đức Giêsu sống lại là tuyên
tín Đức Giêsu là Thiên Chúa. Đó là nội dung đức tin của Phêrô đã tuyên xưng: “Thầy
là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16), mà suốt đời người Kitô hữu
không ngừng loan báo và tuyên xưng, như căn tính, sứ vụ và ơn cứu rỗi của họ, bởi
“thật chính đáng, công bình và sinh ơn cứu độ cho phần rỗi chúng ta” (Kinh Tiền Tụng).
b. Loan
báo cuộc đời và sứ vụ của Đức Giêsu.
Cuộc
đời của Đức Giêsu là cuộc đời vâng phục thánh ý Chúa Cha, Đấng đã sai Ngài đến
trong thế gian để yêu thương và cứu độ. Tất cả những gì Ngài làm, trong bất cứ
hoàn cảnh nào đều làm theo ý Thiên Chúa Cha: “Lậy Cha, xin đừng theo ý con,
nhưng theo ý Cha mọi đàng” (Lc 22, 42). Thánh ý Chúa Cha là lẽ sống, lý do có mặt
của Đức Giêsu trên trần gian này, ngoài ra không còn một lý do hiện hữu nào
khác, chính Đức Giêsu đã khẳng định trước đám đông người Do Thái đang khi họ xầm
xì thắc mắc về nguồn gốc và sứ mệnh của Ngài: “Tôi tự trời mà xuống, không phải
để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi, mà ý của Đấng đã sai
tôi là tất cả những kẻ Nguời đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng
sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những
ai thấy và tin tôi, thì sẽ được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong
ngày sau hết” (Ga 6,38-40). Và Đức Giêsu
đã thực hiện trọn vẹn thánh ý của Cha Ngài với lòng vâng phục tuyệt đối cho đến
chết và chết trên thập giá (Pl 2,8).
Qủa thực, không còn gì rõ hơn, và không ai có
thể xuyên tạc, bẻ cong lẽ sống của Đức
Giêsu khi xuống thế làm người, sống như con người. Cũng từ lẽ sống đó, Đức
Giêsu thi hành sứ vụ của Đấng Cứu Thế mà ngôn sứ Isaia đã báo trước: “Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì
Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghẻo hèn.Người
đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ
được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của
Chúa” (Lc 4,18-19). Sứ vụ cứu thế đó đã được
Đức Giêsu thể hiện qua nếp sống gần gũi, thái độ ân cần cởi mở, thân thiện
với mọi người, không loại trừ ai. Sứ mệnh
cứu thế còn được thực hiện qua các phép lạ chữa nhiều người bệnh tật, cho người
chết sống lại, xua đuổi tà thần khỏi những người bị chúng khống chế, cho người
chết sống lại, “kêu gọi sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15) và nhất là ban lòng Thương Xót
và Bình An của Ngài cho tất cả những ai
đến với Ngài (x. Lc 15; Ga 8,1-11; 14,27).
2. Tin
Mừng đến từ Thiên Chúa Ba Ngôi.
Tin
Mừng mà Đức Giêsu loan báo không là sản phẩm của con người, nhưng xuất phát từ
chính Ba Ngôi Thiên Chúa, nói cách khác, đó là Tin Mừng của Thiên Chúa Ba Ngôi
: Khi Đức Giêsu chịu phép rửa xong, vừa
lên khỏi nước, thì các tầng trời mở ra và Người thấy Thần Khí Thiên Chúa
như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là
Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Con” (Mc 1,9-11).
Cảnh
tượng kỳ diệu trên muốn làm chứng Đức
Giêsu là Con Thiên Chúa, là Ngôi Hai Thiên Chúa và Tin Mừng của Ngài loan báo
cho nhân loại chính là Tin Mừng của cả Ba Ngôi : Chúa Cha, Chúa Con và Chúa
Thánh Thần:
Tầng
trời mở ra là dấu chỉ Thiên Chúa Cha đến
với con người và nói với con người qua Đức Giêsu, Con Một của Ngài.Thiên Chúa
không tự giam mình trong tủ kính, pháo đài, nhưng mở ra, mặc khải, đến gần, ở với
để nói với, lắng nghe, đón tiếp, yêu thương, cứu độ con người, vì Thiên Chúa của
Đức Giêsu là Thiên Chúa say mê con người và không muốn bất cứ ai lạc mất Ngài,
bởi tất cả mọi người đều đã được sinh ra cho Thiên Chúa.
Thần
Khí Thiên Chúa dưới hình chim bồ câu ngự xuống là hình ảnh Chúa Thánh Thần.
Ngài là dây liên kết, hiệp thông vì Ngài là Tình Yêu của Thiên Chúa Cha và
Thiên Chúa Con. Nơi Ngài có Bình An,
Trong Trắng và Êm Ái - Dịu Ngọt của Ba
Ngôi Thiên Chúa.
Tiếng phán từ trời: “Con là Con yêu dấu của Ta” biểu lộ tình yêu
và hiệp thông tuyệt đối giữa Chúa Cha và Chúa Con.
Vì
thế, Tin Mừng của Đức Giêsu là Tin Mừng của Chúa Cha, và cũng là Tin Mừng của
Chúa Thánh Thần. Suốt cuộc đời và xuyên suốt sứ vụ của Đức Giêsu ở trần gian,
Chúa Cha và Chúa Thánh Thần luôn có mặt
và cùng hoạt động với Ngài.
3. Tất
cả mọi người được mời gọi đón nhận Tin Mừng và lên đường loan báo Tin Mừng.
Tin
Mừng là Tin Mừng của Thiên Chúa gửi đến toàn thể nhân loại, cho tất cả mọi người,
không trừ ai, tuyệt đối không khoanh vùng, hay thiết lập biên cương, áp đặt
ranh giới đối với bất cứ sắc dân, văn hoá, trình độ, giai cấp, lãnh thổ nào.Vì
là Tin Mừng của Thiên Chúa cho loài người để cứu độ loài người, nên quyền đón
nhận Tin Mừng, quyền hưởng ơn cứu độ nhờ tin vào Tin Mừng là quyền bất khả xâm
phạm của mọi người và mỗi người. Đó là nhân quyền, quyền căn bản của con người, vì con người được sinh ra từ Tình Yêu Thiên Chúa nên có quyền hưởng hạnh phúc từ Tin Mừng “được Thiên Chúa
yêu thương”.
Vì
thế, Tin Mừng đã được Đức Giêsu rao giảng không chỉ cho Ítraen, mà còn cho các
vùng dân ngoại, không thuộc Ítraen. Và
điều kỳ diệu là ngoài những tông đồ (Lc 9,12), môn đệ (Lc 10,9) được sai đi, Ngài sai cả những người
ngoại đạo đi loan báo Tin Mừng giữa anh em của họ. Điều này có thể làm chúng ta
bỡ ngỡ, vì qủa thực, không ít người trong chúng ta chung một ý nghĩ : chỉ có hàng Giáo Phẩm,
Giáo Sĩ và Tu Sĩ mới có quyền và có khả năng loan báo Tin Mừng, còn những người
khác, việc loan báo Tin Mừng chỉ là thứ yếu, phụ thuộc, lệ thuộc và rất dễ bị
người khác lên án: lấn sân, lộn chuồng, lạc vào vùng cấm địa. Một vài đoạn Tin
Mừng sau đây làm chứng điều này: Đức
Giêsu với người đàn bà xứ Samari (Ga 4, 7-30):
Người
đàn bà này là dân thuộc vùng thù nghịch với Ítraen, nên khi Đức Giêsu xin chị
chút nước uống, chị ta đã sững sờ, hoảng hốt nói: “Ông là người Do Thái, mà lại
xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông uống nước sao ? Qủa thế, người Do Thái
không được phép giao thiệp với người Samari” (Ga 4,9). Sau chuyện dài tâm sự về
cuộc đời đã qua với nhiều người chồng, chị được Đức Giêsu cảm hóa bằng ân huệ của
chính Tin Mừng là Ngài, khi nói với chị : “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói
với chị đây”, “Đấng Mêsia, gọi là Đức Kitô” mà chị đi tìm, nay chị đã được gặp
(Ga 4,25-26). Và chị là một trong những người ngoài Do Thái đã được gặp gỡ Đức
Giêsu là Tin Mừng của Thiên Chúa.
Nhưng
điều làm chúng ta không khỏi ngạc nhiên, và sung sướng khi người đàn bà Samari
đã trở thành người loan báo Tin Mừng, sau khi đón nhận Tin Mừng: “Có nhiều người
Samari trong thành đó đã tin vào Đức Giêsu, vì lời người đàn bà làm chứng: ông ấy
nói với tôi mọi việc tôi đã làm” (Ga 4, 39). Đức Giêsu đã ở lại trong thành này
hai ngày và "số người tin vào lời Đức Giêsu còn đông hơn nữa" (Ga 4,41).
Người
đàn bà ngoại đạo xứ Canaan (Mt 15,21-28):
Bà
là người ngoại đạo đã đến năn nỉ Đức Giêsu dủ lòng thương xót chữa con gái bà bị
qủy ám. Dù bị thử thách, khi Đức Giêsu xem ra như không muốn cứu giúp con bà,
nhưng bà vẫn cứ nhẫn nại kêu xin, và Đức Giêsu đã công khai khen ngợi lòng tin
của bà : “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được như vậy" (Mt 15, 28). Lời khen của Đức Giêsu đã nói lên sự chân
thành đón nhận Tin Mừng của người đàn bà ngoại giáo.Bà đã tin, tức “đã nhận Đức
Giêsu là Cứu Chúa của bà và thực sự Chúa đã cứu con gái bà khỏi bệnh” (Mt
15,28). Con đường từ nhà bà đến gặp Đức Giêsu là con đường lãnh nhận Tin Mừng,
và con dường trở lại nhà từ điểm gặp gỡ
Đức Giêsu sau khi được Ngài cho biết : “Bà cứ về đi, qủy đã xuất khỏi
con gái bà rồi” (Mc 7,29) đã là con đường loan báo Tin Mừng, loan truyền Đức
Kitô, Đấng Cứu Thế của bà.
Đón
nhận Tin Mừng vì thế luôn bao hàm sứ mệnh
loan báo Tin Mừng, bởi bất cứ ai chân thành và lương thiện sẽ không thể không kể
cho người khác nghe những gì họ đã thấy, đã nghe, đã nhận được từ Đấng đã yêu
thương và cứu giúp mình. Đó cũng là
nghiã vụ của một lương tâm lành mạnh và trưởng thành. Người
bị qủy ám ( Mc 5,1-20).
Trong
câu chuyện chữa người bị qủy ám ở vùng Ghêrasa, cũng thuộc vùng đất dân ngoại,
Đức Giêsu đã minh nhiên bảo anh phải loan báo Tin Mừng, nghiã là trở về kể lại
cho gia đình của anh biết mọi điều Ngài đã làm cho anh: “Khi Người xuống thuyền,
thì kẻ trước kia đã bị qủy ám đã nài xin cho được ở với Người, nhưng Người
không cho phép, Người bảo: Anh cứ về nhà với thân nhân, và thuật lại cho họ biết
mọi điều Chúa đã làm cho anh, và Người đã thương anh như thế nào”. Anh ta ra đi
và bắt đầu rao truyền trong miền Thập Tỉnh tất cả những gì Đức Giêsu đã làm cho
anh. Ai nấy đều kinh ngạc. (Mc 5,18-20).
Thật
không ai ngờ Đức Giêsu đã sai cả những người ngoại đạo đi loan báo Tin Mừng và
họ đã loan báo hữu hiệu, bằng cớ là nguiời đàn bà xứ Samari đã làm xôn xao cả
làng, đến nỗi dân làng đã năn nỉ Đức Giêsu ở lại với họ; còn người bị qủa ám
này thì tự nguyện đi làm nhà truyền giáo loan báo Tin Mừng khắp miền Thập Tỉnh
và nhiều người biết đến những điều kỳ diệu Thiên Chúa đang làm cho họ.
Ở
đây, chúng ta còn được Đức Giêsu chính thức dạy cho biết loan báo Tin Mừng là
gì, để không ai còn hồ nghi hay phải tìm
kiếm ở đâu hay với ai khác nội dung của bài sai: Hãy đi và “thuật lại mọi điều
Thiên Chúa làm cho anh và Người đã thương anh thế nào” (Mc 5, 19) .Ôi thật dễ
thương bài sai tràn đầy hồng ân của Tình Yêu Thiên Chúa, và hạnh phúc biết bao cho những môi miệng
và cuộc đời say mê loan báo việc kỳ diệu
Chúa làm và kể lại tình thương bao la của
Ngài.
Với
một vài đoạn Tin Mừng tiêu biểu trong số rất nhiều đọan Tin Mừng khác, chúng ta
có thể nhận ra quyền được loan báo Tin Mừng và sứ vụ loan báo Tin Mừng không
dành cho riêng ai, nhưng là quyền lợi và nghiã vụ của tất cả mọi người, kể cả
những người ngoại đạo, vì trong mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa, họ cũng được
thừa hưởng quyền làm Con , bởi họ được sinh ra từ Thiên Chúa và quy hướng một
cách tự nhiên về Ngài, khi Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người khả năng biết rằng
có Thiên Chúa và khả năngphân biệt tốt - xấu, lành - dữ.
4. Trên
đường loan báo Tin Mừng:
a. Chúng
ta không cô đơn:
Trước
hết, trên đường loan báo Tin Mừng, chúng ta có Đức Giêsu đồng hành và chúng ta
được ở với Ngài (Ga 1,39), ăn với Ngài khi Ngài hoá bánh ra nhiều (Mc 6,
39-42), uống với Ngài ở tiệc cưới Cana (Ga 2,1-11), nghỉ ngơi với Ngài như Ngài
đã bảo các tông đồ: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ
ngơi đôi chút” (Mc 6,31), học với Ngài, được Ngài ủi an, nâng đỡ khi thất vọng,
buồn chán “vì tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi,
tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và học với tôi,
vì tôi có lòng hiền hậu và kiêm nhường.Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng.Vì
ách của tôi êm ái và gánh của tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30). Trên đường Emmau,
hai môn đệ đã chẳng còn thiết đến sự gì, sau khi Thầy bị đóng đinh, chôn trong
mồ, nhưng chính lúc ê chề thảm hại chính là lúc “Đức Giêsu tiến đến gần và đi với
họ” (Lc 24,15).Ngài còn ở lại ăn tối với hai môn đệ khi “trời đã xế chiều và
ngày đã tàn”, xế chiều như hồn người tông đồ hoang phế tuyệt vọng, và tàn
như ngày tàn của cơ đồ Cứu Thế (x. Lc
24,13-35), để rồi sau khi nhận ra Đức Giêsu “khi Ngài cầm lấy bánh, dâng lời
chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ” (Lc
24,30), “họ đứng dậy, quay trở lại
Giêrusalem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. Những người
này bảo hai ông : Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Simon.Còn hai
ông thì thuật lại những gì đã xẩy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế
nào khi Người bẻ bánh” (Lc 24,33-35).
Đi
theo Đức Giêsu, ở với Đức Giêsu, loan báo Tin Mừng như Đức Giêsu, người môn đệ
cũng sẵn sàng chịu đau khổ và chết với Đức Giêsu vì đường Tin Mừng là đường
Thánh Giá, và lời chứng hùng hồn nhất của Tình Yêu là chết cho người mình
yêu.Thánh Phaolô đã thâm tín về sự sẵn sàng của người tông đồ với niềm hân hoan
phó thác trên hành trình theo Đức Giêsu:
“Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng,
ta sẽ cùng hiển trị với Người” (2Tm
2,11-12)
Người
loan báo Tin Mừng vì thế không cô đơn vì
có Đức Giêsu trên suốt hành trình, mà còn có anh em cùng lên đường, chia sẻ, tương thân tương trợ, như hình ảnh Nhóm Mười
Một tụ họp, quây quần kể cho nhau nghe việc mình đã nhận ra Đức Giêsu phục
sinh.
b. Chúng
ta không lạc hậu, lỗi thời
Nhiều
người cho rằng loan báo Tin Mừng là việc làm hết sức lỗi thời, vì Tin Mừng chỉ là những câu chuyện
về một con người đã chết từ hơn hai ngàn năm nay, và những sự kiện của hai ngàn
năm trước hẳn đã không còn hợp với thời đại, không đáp ứng những thao thức, băn
khoăn, đòi hỏi của thế giới hôm nay. Nhưng với chúng ta, những người Kitô hữu
thì Tin Mừng không bao giờ là Tin Mừng của quá khứ, Tin Mừng cổ hủ, lạc hậu, nhưng luôn là Tin Mừng của hôm nay cho những
người đang sống, vì “Đức Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và
như vậy mãi mãi đến muôn đời” (Dt 13,8); vì
Tin Mừng vẫn mãi là Tin Mừng đến từ Thiên Chúa Ba Ngôi cho toàn thể nhân
loại mọi nơi, mọi thời cho đến tận thế. Đàng khác, chính “Đức Giêsu là Thiên
Chúa hằng sống muôn đời, nên phẩm vị tư tế của Người tồn tại mãi mãi. Do đó,
Người có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Người mà tiến lại gần
Thiên Chúa. Thật vậy Người hằng sống để chuyển cầu cho họ” (Dt 7, 24-25).
Bên
cạnh đó, những giá trị của Tin Mừng thì bất biến như Tình Yêu thương xót, Tình
Yêu quên mình, Tình Yêu phục vụ, cũng như đòi hỏi của Tin Mừng thì luôn cần thiết
cho mọi người của mọi thời đại, vì chạm đến chính trái tim của mỗi người để
trái tim con người được hoà giải với trái tim của Thiên Chúa. (x. 2 Cr 5, 20).
Người loan báo Tin Mừng vì thế không là người
kể chuyện cổ tích, hoang đường, hay nói những chuyện vu vơ, mây gió xa rời thực
tế sống, nhưng họ là những người hạnh phúc vì được chính “Tình Yêu Đức Kitô
thúc bách” (2 Cr 5,14), để “trở nên mọi sự cho mọi người” (1 Cr 9,22), khi đi theo và sống chết với Đức Giêsu cho sứ
vụ Loan Báo Tin Mừng : Thiên Chúa yêu thương và cứu độ mọi người (1Ga 4, 9; 1Tm
2,4).
Để
kết thúc bài chia sẻ, tưởng không gì ấn tượng và thôi thúc chúng ta hơn là lời
trần tình “trở nên tất cả cho mọi người” để Tin Mừng được loan báo của thánh
Phaolô, Tông Đồ dân ngoại: "Phải, tôi là
một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi người,
hầu chinh phục thêm được nhiều người. Với người Do Thái, tôi đã trở nên Do
Thái, để chinh phục người Do Thái. Với những ai sống theo Lề Luật, tôi đã trở
nên người sống theo Lề Luật, dù không còn phải sống theo Lề Luật nữa, để chinh
phục những người sống theo Lề Luật. Đối với những kẻ sống ngoài Lề Luật, tôi đã
trở nên người sống ngoài Lề Luật, dù tôi không sống ngoài luật Thiên Chúa, nhưng sống trong luật Đức
Kitô, để chinh phục những người sống ngoài Lề Luật. Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục
những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được
một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng" (1Cr
9, 19-23).
Và
như thế, “thật vô phúc cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1Cr 9,16)
Jorathe Nắng Tím