Pages - Menu

Thứ Tư, 31 tháng 10, 2018

MỪNG KÍNH CÁC THÁNH!

                                   Các Thánh Trước  Đau Khổ Cuộc Đời
   Nhà Phật nhìn cuộc đời như một giòng Vô Thường, trên đó vạn vật lững lờ trôi theo một tiến trình chung : “Thành, Trụ, Hoại, Diệt” ; nghiã là bất cứ vật gì đều được thành hình, tồn tại, hư hao rồi tan biến đi. Con người cũng không ra ngoài định luật này với  “Sinh - Lão - Bệnh - Tử”. 
   Cái nhìn của Cựu Ước về cuộc đời con người cũng không khác cái nhìn của nhà Phật, như sách Giảng Viên đã viết:
“Phù vân nối tiếp phù vân, tất cả là phù vân - Vanitas vanitatum, omnia vanitas” (Gv 1,2). “Mọi sự đều đi về một nơi, mọi sự đều đến từ bụi đất, mọi sự đều trở về bụi đất” (Gv 3,20) vì  “Ở dưới bầu trời này, mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời: một thời để chào đời, một thời để lià thế; một thời để trồng cây, một thời để nhổ cây” (Gv 3,1-2).
  Đức Giêsu cũng đồng ý với tính vô thường, tạm bợ, chóng qua, mau tan biến, dễ bị hủy hoại của mọi sự thuộc về thế giới này, khi khuyên nhủ : “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi.Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi được” (Mt 6,19-20). Ngài còn đi xa hơn khi trách người phú hộ say mê ki cóp của cải và thả cửa ăn chơi: “Đồ ngốc ! Nội trong đêm nay, người ta đến đòi mạng sống ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai ?” (Lc 12, 20).
   Đến lượt chúng ta nhìn đời. Với kinh nghiệm sống và kiến thức về đời sống, chúng ta cũng phải chân nhận :
1. Cuộc sống con người rất ngắn ngủi, tạm bợ, như hoa sớm nở tối tàn :
   Có bao nhiêu người ta đã quen biết, thương yêu nay đã không còn hiện diện trên đời ; bao nhiêu người ta gắn bó thiết thân, chung vai gánh vác công việc, nắm tay từng bước đồng hành, tưởng như không bao giờ có thể vắng nhau  một ngày, xa nhau  một dặm, thế mà giờ này thân xác họ đã tan biến thành tro bụi. Rất nhiều người đã cùng ta nhập cuộc nay đã bỏ cuộc ; rất nhiều người đã cùng ta hăm hở lên đường nay đã dừng chân, ngàn thu yên nghỉ trong lòng đất ; rất nhiều người đã cùng ta nhiều đêm thao thức, khắc khoải  nay đã im hơi lặng tiếng, dù  là một hơi thở rất nhẹ như tơ vương. Và càng lớn tuổi, ta càng thấm thía nỗi cô đơn, vì không còn cha mẹ, anh em, bạn hữu. Đời  càng trôi gần cửa biển, ta càng lo sợ, hoang mang, vì sắp đến phiên ta mất dạng, khuất bóng.
   Thế là kẻ trước người sau, tất cả sẽ ra đi, mà không một uy quyền, thế lực nào có thể ngăn cản, trì hoãn. Ra đi không trù liệu, ra đi không sắp xếp, ra đi không kế hoạch, ra đi không mang được gì, dù nhỏ bé, nhẹ nhõm như hơi thở. Ngày ra đi ấy đã được ghi sẵn trong tờ khai sinh ngày vào đời, bởi có vào thì phải có ra, có sinh ắt có tử, có sống làm sao tránh khỏi chết. Vì là định luật tự nhiên và bất biến, nên không ai hỏi ai, bởi hỏi thì chỉ làm đau lòng nhau : thắt tim người hỏi, và  nhói dạ người nghe.
    Nếu đời sống con người đã ngắn ngủi, tạm bợ, và trước sau sẽ đi về chung một kết thúc là cái chết, thì vật chất làm sao có giá trị vĩnh viễn ? Nó cũng vô thường, đổi thay, chuyền từ tay người này qua tay người kia, lạnh lùng, bạc bẽo.
2. Cuộc sống con người là bể khổ , thung lũng nước mắt :
     Đức Phật bảo : Đời là bể khổ. Kinh Thánh Cựu Ước cũng  khẳng định đau khổ có mặt trong thế giới loài người: đàn bà cực nhọc, khổ sở lúc thai nghén, sinh con; đàn ông vất vả, “cực khổ mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra. Đất đai sẽ sinh gai góc… Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi, sôi nước mắt mới có bánh ăn cho đến khi trở về với đất, vì từ đất ngươi đã được tạo dựng. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3,16.17-19). Kinh “Lậy Nữ Vương” càng ai oán, bi thương hơn với lời cầu thảm thiết : “Chúng con ở nơi khóc lóc than thở kêu khấn Bà thương”.
    Như thế, không ai sẽ là người không đau khổ, không vất vả, cực nhọc, bởi đau khổ, cực nhọc bám theo con người suốt cuộc sống, cho đến khi con người trở về với bụi đất; nghiã là suốt đời khổ, khổ cả đời, đau trọn kiếp, nhọc nhằn thiên thu.
    Con người không chỉ khổ vì phải chết, đau vì biết mình sẽ chết, sợ vì không biết chết ra sao, hoảng vì không mảy may thông tin về những gì xẩy ra sau giờ chết, nhưng con người còn nhiều thứ đau khổ khác. Riêng một chuyện sinh con thôi cũng đã bù đầu với hàng trăm nỗi khổ:  Người  khổ vì không có  con, người khác lại qúa khổ vì đông con, ít tiền; người khổ vì con đau bệnh bẩm sinh, người khác khổ vì mình mà con lây nhiễm và phải mang dị tật; người khổ vì không có sữa nuôi con, người khác đau đớn vì sữa đầy ứ, mà con không chịu bú..
  Lớn lên và trưởng thành, con người tiếp tục khổ với đủ thứ đòi hỏi của đời sống. Xã hội loài người không phải thiên đàng, nhưng chằng chịt đủ mối khổ tương quan, và không tương quan nào đã không ít nhiều làm đau khổ, nhục nhằn, ngậm đắng nuốt cay. Đó là chưa kể, để có được chỗ đứng chỗ ngồi, người ta đã phải khổ rất nhiều, vì cạnh trạnh, đấu đá, luồn lách, cúi đầu, cong lưng.
    Rồi tuổi  già sồng sộc đến, kéo theo một trời khổ làm con người muốn chết sớm để thoát khổ. Có những nỗi khổ tinh thần ở người  già vì cô đơn, bị bỏ rơi, ruồng rẫy, khi không còn khả năng độc lập, tự lập, nhưng phải cậy nhờ, nượng tựa con cháu, nhưng có được bao nhiêu con cháu hiếu thảo và bao nhiêu người già đã hưởng được tuổi già an nhàn, thảnh thơi ? Bên cạnh là những thiếu thốn vật chất, khi tuổi già không còn làm ra tiền, không còn nhiều tiền để thu hút con cháu, không còn nhiều nhà đất để hấp dẫn lòng kính trọng.
   Còn rất nhiều khổ đau khác, đủ loại, đủ kích thước, dung lượng. Có nỗi khổ vì qúa nghèo bên cạnh nỗi khổ vì quá giầu; có nỗi đau vì không ai yêu, bên cạnh nỗi đau vì hào hoa, qúa nhiều người thương; có nỗi buồn vì chẳng được ai biết đến, bên cạnh cơn sầu vì bị mọi người biết và rình rập, dòm ngó.
    Đứng trước cuộc đời bể khổ, cuộc sống thung lũng nước mắt, mỗi người có suy tư và chọn lựa khác nhau. Có người nổi loạn trước phi lý của cuộc đời, bất mãn với chính thân phận làm người  của mình và trách móc, nguyền ruả ai đó đã bắt mình làm người mà không hỏi ý kiến. Nổi loạn và bất mãn với cuộc đời và chính mình chưa đủ, họ còn nhìn người khác đau khổ với cái nhìn tiêu cực, dửng dưng. Một số khác tuy không nổi loạn, lên án, nhưng từ khước dấn thân, và co mình trong âu sầu, phiền não, vì không chấp nhận cuộc đời nhiêu khê, vất vả, nhiều khổ đau đến thế. Cả hai thái độ và chọn lựa  đều tiêu cực và không đem lại một giải pháp xây dựng nào và kết qủa là người ta phải sống cuộc sống như sống một cái chết triển hạn, không chút vui mừng, hy vọng, nhưng âm ỉ lửa bạo lực.
    Tại sao có lửa bạo lực ở đây ? Thưa bạo lực thường phát sinh từ những trái tim khổ đau không chấp nhận khổ đau, những thân phận khổ đau không được chia sẻ khổ đau, những cuộc đời bị khổ đau dập vùi không được người khác nâng đỡ, vực dậy khi gục ngã khổ đau. Ta đừng tưởng người khổ đau nhiều là người biết cảm thương, và dễ thông cảm với người khác. Thực tế chứng minh: không hẳn như vậy, vì khổ đau bị dồn nén, bế tắc sẽ biến thành động cơ của bạo lực, tạo  nên mầm bạo lực, nên chỉ ở thánh nhân và với chọn lựa thánh thiện của thánh nhân, khổ đau mới mang được  mầu sắc tích cực.
3.   Thái độ và chọn lựa của các thánh trước cuộc đời đầy đau khổ:
  Các thánh cũng như mọi người:  được sinh ra, lớn lên, già đi, đau bệnh, rồi chết. Tiến trình của định luật tự nhiên “Sinh - Lão- Bệnh - Tử” áp dụng cho mọi người, không trừ ai, có chăng là đặc miễn cho những người chết sớm qúa nên chưa kịp già và đau bệnh.
    Các thánh trước khi làm thánh đã làm người, làm người đau khổ như tất cả mọi con người đau khổ khác trong bể khổ, thung lũng nước mắt cuộc đời:
a. Các thánh đã đón nhận đau khổ của mình với niềm tin ở Thiên Chúa:
   Đức Giêsu trong vườn Cây Dầu đã vui lòng đón nhận đau khổ và cái chết đang đến gần, vì Ngài tin : Chúa Cha muốn Ngài chịu khổ hình và chết để cứu độ nhân loại. Bởi nếu không tin, Đức Giêsu đã không sẵn sàng: “xin vâng theo ý Chúa  Cha mọi đàng” (Mt 26,42).
    Với khổ đau bủa vây, những khổ đau gây ra do người thù ghét, phản phúc, nhưng cũng  nhiều khổ đau do chính người thương mình, mình thương, các thánh đã vui lòng đón nhận và tìm ra trong đau khổ mình chịu thánh ý của Thiên Chúa.Thánh ý ấy muốn đào tạo, trui luyện, chỉnh đốn, nhất là cho các vị được đóng góp vào công cuộc cứu độ chính mình và anh em đồng loại. Nếu Đức Giêsu không làm người, không đau khổ, không chịu đóng đinh và chết trên thánh giá, thì đau khổ qủa thực vô cùng phi lý vì không đem  lại lợi ích gì cho ai, nhưng sau cuộc đời làm người đau khổ, chịu khổ hình và tử nạn, Đức Giêsu đã sống lại vinh quang để trả lại sự sống đời đời con người đã làm mất. Vì thế, đau khổ và sự chết rất ghê sợ của kiếp người không còn vô nghiã, vô  lý, vì mang lại cho con người ơn cứu sống đời đời và chỗ đứng con cái Thiên Chúa .
     Chấp nhận đau khổ với niềm tin ở Đức Giêsu nơi các thánh không còn là thái độ buông xuôi, tiêu cực, âu sầu, nhưng là chọn lựa của hy vọng nơi Đấng đã đau khổ, chết và sống lại khải hoàn. Bạo lực không còn là phương tiện, vũ khí  đối kháng khổ đau, chống lại sự chết, nhưng mất chỗ đứng trong đau khổ và nhường chỗ cho bình an. Thái độ bình an của các thánh trước đau khổ là thái độ bình an của Đức Giêsu trên đường thánh giá, khi đã xác tín Chúa Cha muốn dùng Thánh Giá để cứu độ nhân loại.
  Thực vậy, không tin Thiên Chúa đã làm người đau khổ, đã chịu mọi thứ khổ đau tinh thần và thể xác, đã chết trong đau khổ tột cùng vì bị bỏ rơi, nhưng đã sống lại từ cõi chết để trở nên nguồn sống mới cho nhân loại, các thánh không thể đón nhận đau khổ của mình với tâm hồn bình an và hy vọng, bởi chỉ trong đau khổ của Đức Giêsu, các vị mới hiểu được mầu nhiệm của khổ đau; chỉ với  cái chết tức tưởi như một  người thất bại của Đức Giêsu, các vị mới nhận ra giá trị cứu độ của sự chết; và chỉ trong Đức Giêsu khải hoàn sống lại, các vị mới không nghi ngại qủa quyết: “Hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nóvẫn trơ trọi một mình; còn nếu thối rữa đi, nó mới sinh được nhiều bông hạt” (Ga 12, 24).
b. Các thánh đã chạnh lòng cảm thương trước đau khổ của người khác và ra tay cứu chữa:
    Đức Phật đã cảm thương trước đại chúng đau khổ, nên đã tìm đường giác ngộ hầu đem lại bình an cho chúng sinh. Các thánh của Thiên Chúa cũng chạnh lòng cảm thương trước đau khổ của người anh em đồng loại, như Đức Giêsu đã luôn chạnh lòng thương đám đông nghèo đói, bệnh tật, bị qủy ám và “như bầy chiên không người chăn dắt” (Mc 6, 34).
     Chạnh lòng thương là khởi điểm quan trọng và cần thiết của con đường đức ái, bởi khi không còn biết chạnh lòng trắc ẩn, chạnh lòng xót thương, chạnh lòng thông cảm, trái tim con người hầu như đã khô máu yêu thương và biến thành chai đá, vô cảm. Người không biết chạnh lòng trước khốn khổ của tha nhân sẽ dửng dưng, hờ hững trước cảnh khốn cùng của người chung quanh; vô cảm, lạnh lùng trước nhu cầu “sống còn” của người lân cận; cứng cỏi, tàn nhẫn trước khẩn khoản thống thiết  của người ăn xin  đang vật vã vì đói rét.  
  Như Đức Giêsu trước đau khổ của người khác đã chạnh lòng cảm thương và  yên lặng tôn trọng. Tin Mừng đã ghi lại rất nhiều những lần gặp gỡ của Đức Giêsu với những người đau khổ. Gặp họ, Ngài không lý luận huyên thuyên, cắt nghiã dài dòng, lý giải linh tinh nguyên nhân, hậu qủa của đau khổ họ đang gánh chịu, nhưng yên lặng nhìn họ cảm thông, yên lặng nắm tay ân cần, yên lặng lắng nghe chăm chú, yên lặng ngồi bên lâu giờ.Ngôn ngữ của  con tim  “chạnh lòng thương” là ngôn ngữ yên lặng, vì chỉ với yên lặng, người ta mới có thể nói với nhau và hiểu nhau trong đau khổ. Hình ảnh của Đức Maria yên lặng đứng dưới chân Thánh Giá treo xác Con mình cũng là hình ảnh tuyệt vời bi tráng của tình yêu Mẹ dành cho Con, Con dành cho Mẹ trong giây phút cực kỳ đau khổ của giờ hấp hối, chia ly.
    Chạnh lòng thương sẽ dẫn đến việc làm cứu giúp, bởi khi con tim đã se thắt xót thương, khối óc, tay chân và toàn thân sẽ sục sôi hành động cứu giúp. Câu chuyện người Samari trong Tin Mừng Luca cực tả hình ảnh các thánh của Thiên Chúa trong cuộc sống thường ngày:
   “Một người kia từ Giêrusalem xuống Giêricô, dọc đưòng bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch nguời ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi cũng thế, một thầy Lêvi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi. Nhưng một người Samari kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng thương. Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy lên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác” (Lc 10, 30-35).
   Ngừời Samari, tuy là người không thuận với đồng bào của Đức Giêsu, nhưng với Ngài, ông là một vị thánh, vì chính Ngài đã đồng ý với người thông luật Môsê : Người Samari, “chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người bị nạn”, và Ngài nói với ông : “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” (Lc 10,37).
    Ở đây, chúng ta nhận ra một điều rất quan trọng, đó là căn tính của người được gọi là Thánh; nói cách khác, đâu là dấu chứng chắc chắn của một vị Thánh?
   Chúng ta không cần dài dòng ở đây, vì Tin Mừng Luca đã minh định rõ ràng : Thánh là người có lòng thương xót như Thiên Chúa là Đấng giầu lòng xót thương, bởi Thiên Chúa thánh thiện vì Ngài  xót thương.
    Ngay trước khi Đức Giêsu kể dụ ngôn người Samari giầu lòng thương xót, Ềngười thông luật đã hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời ?” Thay vì trực tiếp trả lời, Đức Giêsu đã hỏi lại ông : “Thế trong Luật đã viết gì ?” Ông ấy thưa : “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực ngươi và yêu mến anh em như chính mình” (Lc 10, 25-27).
    Kể dụ ngôn người Samari, Đức Giêsu không những mô tả chân dung và việc làm của người được coi là xứng đáng  được sự sống đời đời, mà còn nhấn mạnh lòng thương xót là điều kiện không thể thiếu để được gọi là thánh thiện, là người thánh, vì giống Thiên Chúa ở lòng xót thương. Và chỉ trong một đoạn ngắn từ câu 28 đến 37, Đức Giêsu đã hai lần công bố: “Ông cứ làm như vậy là sẽ được sống” (Lc 10,28), “Ông cũng hãy đi và cũng hãy làm như vậy" (Lc 10,37). 
     “Hãy làm như vậy” là hãy chạnh lòng thương và tận tình cứu giúp người anh em khốn khó, lâm nạn, sa cơ thất thế, không hề  quen biết như người Samari ngoại giáo đã làm.  “Hãy làm như vậy” là không giả ngơ giả điếc trước người chị em bị bạo hành, làm nhục. “Hãy làm như vậy” là không hèn nhát áp dụng chiêu trò vô cảm, vô can “không thấy, không nghe, không nói” của một xã hội cạn kiệt lòng tốt và tình người. “Hãy làm như vậy” là không tránh qua bên kia, bỏ người cô thế bị trấn lột và đánh đập tàn nhẫn, để không bị phiền phức, rắc rối, dính líu, nghi ngờ. “Hãy làm như vậy” là ân cần băng bó vết thương, tế nhị thanh toán hết tiền thuốc men, chăm sóc cho người kém may mắn, mà không huyênh hoang, khoe khoang, tự đắc. “Hãy làm như vậy” là yêu thương, giúp đỡ đến cùng, không yêu một phần người, thương một quãng đường, giúp đỡ bôi bác, tượng trưng, nặng phần trình diễn, nhưng như người Samari tận tình trở lại quán trọ, sau khi đã xong công việc, để hoàn lại chủ quán tiền chăm sóc còn thiếu.      
    Tóm lại, các thánh là những công dân ưu tú của Nước Trời đã sống triệt để Hiến Chương của lòng thương xót. Phải có lòng thương xót mới có thể nghèo khó, hiền lành vì người khác; có lòng thương xót mới dám ghé vai vác đỡ gánh đời nặng sầu, nặng khổ của anh em; có lòng thương xót mới khát khao  xây dựng an bình cho mọi người; có lòng thương xót mới cam chịu bao bất công, và đủ điều vu khống xấu xa vì  công chính và Nước Trời (x. Bát Phúc, Mt 5,1-11). Và suốt đời,  các thánh đã “giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong Máu  Con Chiên” (Kh 7,14), để rồi  trước thiên nhan, các ngài đã vui mừng hớn hở đứng về bên phải của Thiên Chúa và nghe Thiên Chúa tuyên dương, ân thưởng: “Nào những kẻ Cha ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han” (Mt 25,34-36). Tắt một lời, các thánh là những người đã trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu trong lòng thương xót, điều  mà Thiên Chúa chọn làm sự thánh thiện của Ngài, và tất nhiên cũng là điều kiện để con người  trở thành con Chúa, và được đứng trong hàng ngũ các thánh của Thiên Chúa trong Vương Quốc của Ngài.
    Kính xin các Thánh  nam nữ trên trời cầu bầu cho chúng con để từng ngày trái tim chúng con được đổi mới, hầu biết chạnh lòng thương và mau mắn sẻ chia, nâng đỡ, phục vụ anh em, như các thánh đã sống trọn Lòng Thương Xót ngày xưa trên dương thế.
Jorathe Nắng Tím