Pages - Menu

Thứ Sáu, 2 tháng 11, 2018

THÁNH GIÁ Giữa Nghiã Trang!

     Paris vào thu và mùa thu Paris bao giờ cũng buồn : lá vàng đổ ngập  đường, gió đêm se lạnh, và ông mặt trời lười biếng, thức muộn. Trời buồn nên lòng người chùng  xuống, không vui : không vui vì vào mùa sụt sùi cảm cúm, chùng xuống vì thương nhớ người đã ra đi.
   Nhà tôi gần nghiã trang, từ cửa sổ căn phòng nhỏ trên lầu hai, tôi nhìn tường tận các ngôi mộ cũ-mới im lìm thẳng hàng thẳng lối, nhiều ngôi mộ tiêu điều, hoang vắng không thân nhân chăm sóc, bên cạnh những ngôi mộ được phủ kín bởi rừng hoa đủ loại.
     Tưởng nhớ người thân đã ra đi giữa nghiã trang toàn những người ngọai quốc xa lạ, nhưng tôi không thấy xa lạ chút nào, trái lại, tôi thấy họ rất thân quen và thấy mình gần gũi với họ.
    Tôi không thấy xa lạ người chết, dù người chết thuộc sắc dân, văn hoá, tôn giáo, trình độ hay giai cấp nào đi nữa, bởi tôi biết sẽ cùng họ chia sẻ thân phận phải chết. Đa phần vào đời trước tôi, một số ít sau tôi nhưng yểu mệnh vắn số, họ đã ra đi trước, để trở về đất hay tan biến thành tro trong lò hoả thiêu. Biết mình cùng thân phận phải chết, nên chân tôi vững chãi ghé thăm từng ngôi mộ và không còn thấy xa lạ, lạc lõng giữa nghiã trang ngoại quốc này, với ý nghĩ về một ngày xa gần không biết, tôi cũng sẽ nằm xuống im lìm thẳng hàng thẳng lối như họ đang nằm đây, hoặc sẽ nhỏ bé, không cồng kềnh, khi chỉ còn là chút tro với mấy mẩu xương nhỏ như cọng tăm được đặt đâu đó.  
   Chiều nay, tôi không thấy xa lạ những người đã chết, vì tôi biết, khi chết, tôi cũng sẽ như họ, nghiã là bất lực hoàn toàn khi sự sống quyết định rời bỏ thân xác ra đi. Tôi sẽ bất lực vì không còn sức khỏe, bất lực vì hết sức đề kháng, bất lực vì không thể vượt qua cơn bệnh, bất lực vì không còn ai có thể cứu tôi sống, bất lực vì không còn giữ được hơi thở dù rất nhẹ, rất khẽ; bất lực vì không còn khả thể kéo dài thêm sự sống, bất lực vì phương tiện cạn kiệt, bất lực vì thiện chí phải chào thua, bất lực vì là đọan kết cuộc đời, khi ở vào cây số sau cùng của hành trình đời người.
   Tôi  cũng không thấy xa lạ những người đã bỏ cuộc ra đi trước tôi, bởi khi hấp hối, tôi cũng sẽ đau đớn, ngắc ngoải, lo âu, miệng lưỡi cứng đơ, mắt nhắm nghiền muốn mở ra nhìn đời lần chót cũng không chắc được, chân tay co quắp, hơi thở đứt đoạn, nặng nhọc cho đến khi toàn thân rũ liệt, buông xuôi khi linh hồn ra khỏi xác. 
    Tôi càng không thấy xa lạ họ, vì tôi sẽ làm người nhà bật khóc nức nở, bạn hữu rơi lệ tiếc thương, kẻ thù vui mừng hớn hở, đối phương thở phào đắc chí và kẻ phản bội nhẹ lòng như tháo được khối đá khỏi cổ. Ngày an táng, tôi cũng sẽ như họ phải nằm im để nghe nhiều lời chia buồn thật giả : có người buồn nói lời chia buồn thật, có người nói lời chia buồn nhưng lòng vui như trúng số. Bên cạnh là những bó hoa cũng hư thực muôn mầu, bởi giữa rừng hoa phân ưu, thương tiếc sẽ không thiếu những vòng hoa tím ngắt xót xa, dạt dào thương tiếc của những lòng dạ đang tưng bừng mở hội.
  Vâng, tôi không còn thấy mình xa lạ với người chết, vì tôi chung một số phận “làm người phải chết” với họ. Họ chết trước tôi, tôi biết họ chết thế nào, nên đến phiên mình, hy vọng sẽ bớt lúng túng, ngờ nghệch, dù vẫn biết chẳng ai chết giống ai.
    Từ lạ thành  quen, tôi thấy mình là láng giềng quen thuộc của nhiều người đã ra đi, khi biết rằng sẽ chẳng còn mấy người nhớ đến họ và đến lượt mình cũng thế thôi. Người đời chóng quên, không hẳn vì họ muốn quên, cho bằng vì cuộc sống xô bồ, phải chạy đua với thời gian để tồn tại, nên nhớ người đã khuất không còn là một nhu cầu, một đòi hỏi được quan tâm. Người chết sẽ xa dần tim óc người sống, như tấm hình nhạt dần, phai dần, mờ dần với thời gian.
     Chiều nay, trước khi rời nghiã trang, tôi ngồi bên tượng Chịu Nạn ở giữa nghiã trang và ngước nhìn Đức Giêsu chịu đóng đinh. Hình ảnh Thiên Chúa ngoẹo cổ  tức tưởi chết trên Thánh Giá làm tôi rùng mình xúc động. Trong nỗi xúc động, tôi thấy Thiên Chúa thật gần gũi con người,  và là niềm hy vọng của  mọi người, khi Ngài chết như người có tội,  chết như kẻ gian phi.
  Thực vậy, người ta có thể không giống nhau về nhiều mặt, nhiều phương diện, nhiều khiá cạnh trong cuộc sống, nhưng tất cả đều giống nhau ở số phận phải chết, bởi ai cũng phải chết. Đức Giêsu Thiên Chúa đã chết như con người, để không ai có thể nói Thiên Chúa ở xa tít tắp, cao vút chín tầng trời, xa cách loài người, và chỉ làm người dở dang, làm người nửa vời, làm người nửa kiếp.
      Chết như con người, Thiên Chúa đã gần gũi con người đến tận cùng, gần gũi từng người trong thẳm sâu của thân phận người. Không chỉ gần gũi con người trong đời sống làm người, Thiên Chúa còn gần con người trong chính số phận làm người phải chết của mỗi người. Con người chết sao, Thiên Chúa chết vậy, chưa kể cái chết của Thiên Chúa còn tức tưởi, tang thương, cô đơn, cô độc, hiu hắt, bẽ bàng, bi thảm, thê lương, thiếu thốn, tầm thường gấp nhiều lần cái chết của đa số những người đã chết .Tất nhiên, cũng không thiếu những người đã chết khổ hơn, chết đau đớn hơn, chết vật vã hơn  Đức  Giêsu, nhưng ở ngôi vị Thiên Chúa,  là Thiên Chúa toàn năng mà chết như tội nhân, là Thiên Chúa Cứu Độ mà chết như người có tội, là Thiên Chúa tuyệt đối thánh thiện mà chết như kẻ gian ác thì chắc chắn không có cái chết nào của con người có thể so sánh!
   Chiêm ngắm Đức Giêsu Thiên Chúa chết như tội nhân trên Thánh Giá, tôi mới thấy Thiên Chúa gần gũi, yêu thương người có tội. Dù vô tội và tuyệt đối thánh thiện, Thiên Chúa làm người đã không chọn cái chết của người công chính ; chọn đám tang của vĩ nhân, người hung ; chọn kiểu ra đi của siêu sao, nhà lãnh đạo đương thời, nhưng chọn chết như một người có tội.
       Ngài có thể chết bình thường, không bi thảm máu me, không trần truồng ô nhục, không khăn liệm, mộ phần ; nhưng để người có tội, là thành phần đáng khinh bỉ của tôn giáo ; để tội nhân, là thành phần bị cuộc đời nguyền rủa, khước từ ; để phạm nhân, là thành phần bị cơ chế xã hội lên án, trừng phạt có chỗ nương dựa, có người cảm thông, có Đấng chở che, cứu độ, Thiên Chúa đã vui lòng chấp nhận chết như người có tội, như tội nhân bị nguyền rủa, như phạm nhân đáng phải chết.
     Chết như người có tội, Thiên Chúa đã bầy tỏ đến tận cùng lòng thương xót của Ngài đối với tội nhân. Đối với Thiên Chúa, tội lỗi đáng ghê tởm, nhưng tội nhân luôn luôn và mãi mãi đáng thương, đáng yêu, cần được cứu độ.
     Không những chết như tội nhân để tội nhân không mất niềm hy vọng được yêu thương, cứu rỗi, Đức Giêsu Thiên Chúa còn công khai bộc lộ lòng khao khát tìm kiếm tội nhân khi xin Chúa Cha “tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34). Họ đây là tất cả những người có tội. Ngài còn tha thứ và hứa Nước Trời ngay hôm nay cho anh gian phi cùng chịu đóng đinh bên phải Ngài (x. Lc 23, 43). 
     Qủa thực, tôi không thể tìm được tương quan nào có thể gần gũi, thiết thân hơn giữa con người và Thiên Chúa, khi ngước nhìn Thánh Giá và Thiên Chúa tự nguyện làm tội nhân chết treo trên đó. Không Thiên Chúa nào đã yêu con người đến cùng như Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô ; không thần linh nào có thể đi đến cùng tình yêu dành cho con người đến nỗi bị coi là điên khùng như Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô, và trong giây phút chiêm ngắm hình hài Thiên Chúa chết thảm thương, tôi khám phá ra lòng thương xót bao la vô cùng vô tận của Thiên Chúa là Tình Yêu tuyệt đối, để xác tín rằng : trong tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa, không tương đối nào của con người, kể cả tội lỗi có thể tồn tại, mà không tan biến trong lòng xót thương.
  Chiêm ngắm Đức Giêsu chết như con người nghèo khó, bị bỏ rơi, tôi thấy Ngài gần gũi những con người kém may mắn trong cuộc đời, nên từ nay có ai lớn tếng phán xét  người này chết lành, người kia chết dữ, ông này lên thiên đàng, bà kia xuống hoả ngục khi căn cứ vào cách chết, số người viếng thăm, vòng hoa phân ưu, phúng điếu, tang lễ long trọng, linh đình và mức độ hoành tráng của đám tang, chắc chắn tôi sẽ không quan tâm, vì có ai thánh thiện bằng Thiên Chúa, và có ai đã chết tức tưởi, thê thảm, khốn nạn, nghèo nàn, lặng lẽ  như Thiên Chúa trên Núi Sọ ? 
     Chiêm ngắm Đức Giêsu chết như người vô tội bị kết án oan uổng, bất công, tôi thấy Thiên Chúa thật gần gũi với bao thân phận bị hàm oan, vu khống, và đến giờ chết cũng không mấy người thấu hiểu, minh oan, trả lại danh dự, phục hồi nhân phẩm cho họ. Họ chết như tội phạm, như kẻ thù của xã hội, như kẻ phá hoại cộng đồng ; họ chết trong phẫn nộ của những kẻ tự nhận mình là người công chính ; chết nhục nhằn trong mắng nhiếc, chửi rủa, khinh mạn của những kẻ được họ làm ơn, trong khi dưới mắt Thiên Chúa, họ là ân nhân của nhân loại đã cống hiến cuộc đời để  xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn.
    Chiêm ngắm Đức Giêsu chết như người tôi tớ trung tín, khiêm nhường, tôi thấy Thiên Chúa luôn gần gũi những người bé mọn, không tiếng nói, không quyền lực, không ảnh hưởng, không ô dù, không thế lực chống lưng. Và quả thực, Nước Trời thuộc về những người bé mọn này, vì họ được Thiên Chúa trung tín đồng hành suốt cuộc đời, cho đến giờ họ lâm chung.
   Chiêm ngắm Đức Giêsu chết như người “sống không nhà, chết không địa tang”, tôi thấy Thiên Chúa gần gũi với những mảnh đời rách bươm, lang thang “đầu đường xó chợ”. Ngài ở với họ trong cuộc đời cơ cực, và chết với họ trong “hoàn cảnh hậu sự” túng cực không mồ mả, ma chay, cúng giỗ.
     Trên đường về từ nghiã trang chiều nay, tôi không còn thấy mình xa lạ với những người đã chết, dù họ không là thân nhân, bạn hữu, hàng xóm láng giềng. Tôi gặp ở họ ở nhiều mẫu số chung, trong đó có thân phận làm người phải chết. Không còn xa lạ với họ, nhưng tôi không khỏi lo lắng về giờ chết của riêng tôi, vì biết ai cũng phải chết một mình, một mình đi vào cõi vô cùng, không hề được biết trước.
      Rất may, tôi gặp được Thiên Chúa làm người chết treo trên Thánh Giá, và Thiên Chúa chết như con người, chết cho con người ấy đã mang lại cho tôi niềm hy vọng được chết cùng Ngài, vì Ngài đã tự nguyện chết cùng mọi người như tội nhân, như người hèn mọn, yếu đuối, bị  khinh miệt, bỏ rơi.
    Có Thiên Chúa cùng chết, tôi sẽ an tâm chết, vì biết Thiên Chúa đã chết thay thân phận tội nhân của tôi, khi Ngài chết như người có tội. Có Thiên Chúa cùng hấp hối, tôi sẽ bình an trút hơi thở cuối cùng, vì có lời cầu xin ơn tha tội của chính Thiên Chúa : “Lậy Cha, xin tha cho họ !”. Có Thiên Chúa cùng chôn trong mồ, tôi sẽ yên nghỉ trong niềm hy vọng được cùng Ngài sống lại, vì Ngài luôn xót thương phận người yếu đuối, hèn mọn của tôi.
   Mùa thu có Chúa sẽ không còn là mùa thu buồn, với lá vàng lả chả rơi, như những con người nối đuôi nhau đi về cõi chết vô vọng. Nhưng từ khi có Chúa là Tình Yêu Thương Xót, muà thu cuộc đời chỉ còn những lá vàng đon đả, rộn ràng gọi nhau về cội, như đàn con hối hả, ríu rít rủ nhau về nhà Cha rất nhân hậu và giầu sang.
Jorathe Nắng Tím