Pages - Menu

Thứ Ba, 26 tháng 2, 2019

Mùa Chay - Mùa Bình An Cho Người Thiện Tâm

Đề tài nghe giống như tiếng hát thiên thần đêm Giáng Sinh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình An dưới thế cho người thiện tâm”. Không lẽ mình lạc đề Mùa Chay sang mùa sinh nhật? Không khí những ngày cuối cùng trước khi đi vào cuộc tử nạn ngày càng nặng nề, ngột ngạt vì những cuộc tranh luận giữa những người Biệt Phái thiếu thiện tâm và Đức Kitô, đích nhắm của thế lực đạo đời đang tìm tiêu diệt. Bầu khí rất căng thẳng khi những người Do Thái bị đám Biệt Phái thúc giục, giật giây đã công khai khủng bố Đức Kitô và nhóm môn đệ của Ngài bằng những màn khiêu khích, gây gổ, ném đá. Giáo huấn và những mạc khải về Thiên Chúa cũng như những phép lạ của Đức Kitô đã làm họ điên lên và như những giọt nước cuối cùng đã tràn ly, họ quyết tâm bắt Ngài trong dịp lễ Vượt Qua là lễ lớn của đạo Do Thái kỷ niệm ngày dân ra khỏi đất Ai Cập nô lệ.
Trong bầu khí căng thẳng của những ngày này, ta nhận ra dễ dàng diện mạo những người thiếu thiện tâm và qua thái độ, hành động của họ, ta khám phá bộ mặt thật của tâm địa ác độc, giả hình.
 Tin Mừng Mátthêu và Gioan đặc biệt vạch rõ bộ mặt thật này qua nhiều trình thuật được tỉ mỉ ghi chú, trình bày.
1.   Trước hết, người thiếu thiện tâm là người không tôn trọng sự thật. Sự thật rành rành xảy ra trước mắt, họ cũng không chấp nhận, nếu sự thực ấy không có lợi cho họ, không cùng lề phải, cùng hướng họ đi. Sự thực cho dù có được mọi người công nhận, họ cũng cối chầy phủ nhận, xuyên tạc, bóp méo, gạt phăng, giễu cợt. Câu chuyện Đức Kitô chữa người mù bẩm sinh đã chứng minh điều này (Ga 9,1-41). Người mù được Chúa chữa lành là một phép lạ tỏ tường trước mắt nhiều người quen biết anh và tất cả đều sửng sốt, trầm trồ thán phục. Anh mù được sáng mắt, sau khi đến hồ Siloê để rửa như lời dặn của Đức Kitô đã công khai tuyên xưng “Người làm cho tôi sáng mắt chính là ông Giêsu” (Ga 9,11). Đám đông thấy phép lạ thì tin ngay, nhưng đám Biệt Phái thiếu thiện tâm thì lắt léo gặng hỏi người mù được chữa lành, rồi cho gọi cha mẹ anh đến để hạch hỏi xem có thật anh là con ông bà, bị mù từ thuở mới sinh và tại sao bây giờ được sáng mắt (Ga 9,19-20). Họ thiếu thiện tâm nên không sự thật nào lọt vào được tâm địa gian ác của họ, vì sự thật không thể chung sống với ác tâm. Tuy cố tình chống lại sự thật, từ chối phép lạ Đức Kitô chữa anh mù, họ không thay đổi được xác tín rất mạnh mẽ, dứt khoát và kiên định của anh mù luôn miệng tuyên bố: “Tôi đã nói với các ông nhiều lần: chính ông Giêsuđã mở mắt cho tôi mà các ông không chịu tin” (Ga 9,27), phải chờ đến khi anh mù hỏi đểu: “Hay các ông muốn nghe tôi kể lại, vì các ông cũng muốn làm môn đệ ông ấy?” họ mới chịu yên, nhưng vì bị “chạm nọc” tự ái, nên họ điên cuồng chửi rủa anh không tiếc lời: “Mày mới là môn đệ ông ấy, còn chúng tao là môn đệ Môsê...”, “Mày là đứa sinh ra hoàn toàn trong tội mà dám lên lớp, dạy bảo chúng tao à?” và họ đuổi anh ra ngoài cho khuất mắt họ (Ga 9,27-28.34).
2. Không áp chế được sự thật và không bịt miệng được người công bố sự thật, những người mang tâm địa xấu như mấy ông Biệt Phái quay ra bới lông tìm vết. Biết không làm gì được trước lòng tin và ngưỡng mộ của dân chúng khi Đức Kitô chữa người tê bại ở hồ Bêzatha, gần Cửa Chiên của đền thờ Giêrusalem (Ga 5,1-16), họ quay sang tấn công người tê bại được chữa lành đang vác chõng đi: “Anh này, anh không được vác chõng như thế, vì hôm nay là ngày thứ bảy”. Ngày thứ bảy là ngày nghỉ việc, nhưng mắc mớ gì đến chuyện vác chõng về nhà sau ba mươi tám năm nằm chết gí một chỗ, nay mới được chữa lành. Thử tưởng tượng niềm vui chất ngất của một người bất toại không đi đứng nhưng nằm bất động ba mươi tám năm nay đứng được, đi được, chạy nhảy được. Thế mà niềm vui của ông đã không được chia sẻ, nhưng đã bị những người có tâm địa xấu rình rập muốn cướp đi. Không ngăn chặn được sự thật một phép lạ lớn vừa xảy ra, họ tìm cớ kết tội anh đã không giữ luật ngày Sabát mà chẳng thèm quan tâm đến bệnh tật đã kìm kẹp, buộc trói anh nằm yên một chỗ gần nửa cuộc đời. Ác tâm đã không đón nhận sự thật, cũng như không có chỗ cho cảm thông, yêu thương. Không thiện tâm, trái tim họ “không vui được với ai mừng vui và không khóc được với ai đang khổ sầu” vì trái tim ấy cằn cỗi, khô khan, đầy kín mưu mô, ác độc. Họ rất giỏi bắt bẻ những sơ hở cỏn con như hạch sách Chúa: “Tại sao các môn đệ của ông không giữ tập tục của cha ông khi không rửa tay trước khi ăn” (Mt 15,2). Rửa tay trước khi ăn chỉ là một tập tục không quan trọng, nhưng với ác ý, ác tâm gài bẫy Đức Kitô, họ đã đem chuyện nhỏ ra bắt bẻ. Vì thế mà họ đã bị Đức Kitô kết án là đồ giả hình “chỉ thờ kính Thiên Chúa bằng môi miệng, còn lòng chúng thì quá xa xôi” (Mt 15,8). Và cứ thế, với tâm địa không ngay lành, họ tìm mọi sơ hở để bắt bẻ Đức Kitô và các môn đệ.
3.   Bới lông tìm vết không xong, bắt bẻ không đạt, họ quay sang thủ đoạn xuyên tạc, gièm pha, chụp mũ, giễu cợt. “Không ăn uống như Gioan Tẩy Giả thì họ bảo bị quỷ ám. Đức Kitô đến, ăn uống như mọi người thì họ bảo: Đó là một tên mê ăn, bợm nhậu, chuyên la cà làm bạn với những người thu thuế và tội lỗi” (Mt 11,18-19). Trừ quỷ cho người bị quỷ ám, thay vì nhận đó là phép lạ và tình trạng được chữa lành của người bị quỷ ám, những người Biệt Phái thiếu thiện tâm đã thẳng thừng chụp mũ : “Ông này đã nhờ phép tướng quỷ mà trừ quỷ” (Mt 12,24). Bị Đức Kitô kê lại: “Nếu quỷ lại trừ quỷ thì chúng chia rẽ nhau, nước chúng bền vững thế nào được? Vả lại, nếu ta nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ, thì con cháu các ông sẽ nhờ ai mà trừ?” (Mt 12,26-27). Cứ ra trận nào là thua trận ấy, xuất chiêu nào là chiêu ấy bị “nốc ao - knock out” thế mà vẫn chưa chịu yên, cứ hừng hực xiên xỏ vì tâm can rực lửa ác độc, ngập đầy ý nghĩ xấu xa. Đức Kitô muốn họ khiêm tốn nhìn lại tâm địa thiếu ngay lành, chính trực của họ để cuộc đời họ được đổi mới, nhưng xem ra đâu cũng hoàn đấy và cho đến giờ Đức Kitô bị đóng đinh hấp hối trên Thánh Giá, họ cũng vẫn giễu cợt, ngạo mạn, thách thức: “Nếu nó đã cứu được kẻ khác, sao không cứu được mình. Nếu nó là vua dân Do Thái, thì hãy xuống khỏi thập giá đi, có thế chúng ta mới tin. Nó trông cậy vào Thiên Chúa. Vậy nếu Thiên Chúa yêu nó thì hãy cứu nó đi vì nó đã tự xưng là Con Thiên Chúa” (Mt 28,41-43). Tâm địa cực kỳ ác độc đã không buông tha cả người đang quằn quại hấp hối trên thập tự!
4.   Đòn độc tiếp theo của những người lòng dạ không ngay chính là chia rẽ, xúi bẩy, ném đá giấu tay. Họ rất sợ người khác đoàn kết, vì đám đông đoàn kết là họ chết, hết đâm thọc. Càng chia nhỏ đám đông, càng dễ khuynh đảo quần chúng, dư luận. Xúi người khác làm bậy, thúc người khác làm điều gian ác cũng là nghề ruột của họ, vì tâm địa gian ác chỉ tìm những điều gian ác. Đức Kitô đã ngao ngán thốt lên: “Bao nhiêu lần, ta muốn tập hợp con cái, như gà mẹ ấp ủ con dưới cánh mà các ngươi chẳng muốn” (Mt 24,37). Trước mặt quan Philatô, những trưởng tế và kỳ lão ác tâm đã xúi dân xin tha Baraba và đòi giết Đức Giêsu, mặc dù Philatô đã nói rõ: Tôi không thấy người này có tội gì (Mt 27,23), cả vợ ông cũng mơ thấy điềm chẳng lành nếu chồng mình dính vào máu người vô tội này (Mt 27,19). Ném đá giấu tay và xúi bẩy dân đồng thanh đòi đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá, họ đã thành công trong mưu đồ triệt hạ Đức Kitô, người đã lật tẩy bộ mặt giả nhân giả nghĩa, tâm địa gian ác, ghen tương, kiêu ngạo của họ. Ván bài lật ngửa hoàn toàn khi Đức Kitô chỉ mặt gọi tên, kể tội họ: Hỡi bọn giả hình, phô trương, lười biếng, háo danh! Hỡi loài rắn độc, bóc lột, tham ô, mù quáng! Hỡi phường gian ác, bên ngoài tô son, bên trong hôi thối! Hỡi đám lưu manh, cướp cơm chim, trấn lột bà goá! Hỡi bọn công chính giả hiệu, bề ngoài như những mồ mả quét vôi trắng, nhưng bên trong hôi thối, dòi bọ! Hỡi đám côn đồ bàn tay vấy máu người vô tội! (Mt 23,1-39). Quả thực, Đức Kitô đã không từ bỏ một danh xưng tiêu cực, gớm ghiếc nào để gọi tên, điểm mặt những người tâm địa không ngay lành và ngoan cố giả hình này. Chiến tranh giữa Ngài và các ông Biệt Phái, Thượng tế bùng nổ dữ dội và kết thúc bằng việc Đức Kitô bị các ông âm mưu gài bắt và kết án tử hình đóng đinh. Với cái nhìn nhân loại, các ông là người chiến thắng và gian tà, ác độc đã đánh gục người thiện tâm, ngay chính, hiền lành là Đức Kitô, chiên Thiên Chúa, tôi tớ đau khổ, vâng lời của Giavê.
5.   Sau cùng là thái độ côn đồ khi bị đuối lí, mắc kẹt, hay bị “quê mặt” trước người khác. Không biết bao nhiêu lần họ đã ném đá Đức Kitô khi họ bị Ngài dồn vào thế bí, không trả lời được (Ga 8,59). Cái khổ của họ là hay “vạch lá tìm sâu”, nhưng sâu đâu không thấy, chỉ thấy họ bị “quê một cục”, mặt đỏ bừng như gấc, luống cuống, ngượng ngùng trước đám đông khi bị Đức Kitô đốp chát, quật lại. Sử dụng luật rừng ném đá khi thua lí là nét côn đồ ở những người Biệt Phái thiếu thiện tâm.
Ngoài kiểu chơi giang hồ, côn đồ này, họ còn sử dụng màn đe doạ, áp đảo tinh thần những người có thiện cảm hoặc bênh vực chân lý như trường hợp ông Nicôđêmô cũng ở trong nhóm họ khi ông này lên tiếng nhắc nhở: “Lề Luật của chúng ta không lên án ai khi chưa tra hỏi người ấy và chưa biết rõ việc họ làm” (Ga 7,50-51). Ông bất bình trước sự việc những đồng nghiệp thiếu thiện tâm đang moi móc, tìm cớ bắt cho bằng được Đức Kitô. Điên tiết trước lời nhắc nhở, họ quát mắng ông: “Cả anh nữa, anh cũng là người Galilê ư? Giở Kinh Thánh ra mà xem, anh sẽ thấy: chẳng có một tiên tri nào xuất hiện từ Galilê cả” (Ga 7,52).
Đề tài là “người thiện tâm” mà lại miên man với “người ác tâm” nên coi như đã lạc đề; nhưng trộm nghĩ khi những tiêu cực của ác tâm hiện hình, thì tích cực của thiện tâm cũng xuất hiện. Người ác tâm luôn bàn ra, gièm pha, xuyên tạc, bóp méo sự thật, chụp mũ chứng nhân, móc lò, phê phán, hạ uy tín, trấn áp, khủng bố, manh động côn đồ người không cùng chính kiến, không cùng lý tưởng, không đồng chí hướng. Mục đích của người có tâm địa xấu là cướp cơm chim, giành công trạng, khoe khoang, lợi dụng và hưởng thụ. Ngược lại, người thiện tâm tôn trọng, bảo vệ, yêu mến, sống chết cho sự thực; người thiện tâm nhìn sự việc dưới con mắt trong sáng, với ý nghĩ ngay lành, tích cực và luôn thiết tha xây dựng, giúp đỡ, che chở người khác. Người thiện tâm không tìm mình nên không kiêu căng, khoe khoang, tự mãn, không gian dối, mưu mô, nhưng hiền hoà, khiêm tốn, trung thực và luôn vì lợi ích chung của mọi người.
Đêm Giáng Sinh các Thiên Thần đã chúc an bình cho người thiện tâm. Đêm Mùa Chay, Đức Kitô cũng nhẹ nhàng nhắc nhở phải sống bằng thiện tâm. Thiện tâm là trái tim hiền lành, khiêm tốn; là trái tim khao khát công chính và rộng lượng xót thương; là trái tim trong sạch, yêu chuộng hoà bình; là trái tim nhạy bén dễ cảm thông, biết sẻ chia với người cùng khốn; là trái tim vui với ai mừng vui, khóc với ai đang sầu khổ; là trái tim nhìn thấy Thiên Chúa trong mọi người để yêu thương, tha thứ, phục vụ, hiến mình.
Mùa Chay cũng là mùa an bình khi tất cả rời bỏ xôn xao, trở về lắng đọng. Trong tĩnh lặng của thời gian, thanh vắng của không gian, Đức Kitô âu yếm thì thầm: “Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Các con hãy đi và sinh nhiều hoa trái, vì Thầy luôn ở với ai có tâm hồn ngay lành” (Ga 20,19).