Đêm
qua con mơ mình chết. Con thấy rõ mình chết đơn độc ở một nơi hoang vắng. Không
người, không thú, không tiếng lá cây reo, không tiếng côn trùng nỉ non khóc. Và
con đã chết một mình trong chơi vơi sợ hãi
…
Sáng
thức dậy, con vẫn nhớ như in cảnh tượng giờ chết, và những gì con đã nghe ở giờ
lâm chung.
Con
nhớ trong nỗi kinh hoàng của người sắp bỏ lại phiá sau cuộc đời, hình ảnh Thánh
Giá của Đức Giêsu chịu đóng đinh. Ngài hoàn toàn yên lặng. Có rất nhiều tiếng ồn
ào inh ỏi, kể cả gào thét, và chửi rủa thô tục. Đủ mọi ngôn ngữ, đủ mọi giọng
miền, đủ mọi cung bậc, ai cũng nhao nhao cố nói cho được điều mình muốn nói. Họ
hướng cả về Thánh Giá của Đức Giêsu mà hét to hơn, nói lớn hơn, gào mạnh hơn,
nhưng Đức Giêsu vẫn cúi đầu lặng lẽ, không trả lời ai.
Tuy
sợ hãi rụng rời, con vẫn đăm đăm nhìn Ngài và vểnh tai nghe người ta nói gì với
Ngài. Có nhiều người trách móc Ngài đã không cứu họ khỏi chết, có người lên án
Ngài là tên lừa bịp “nhận
mình là Thiên Chúa mà không tự cứu được mình”, có người bực bội trút lời thô tục rủa xả và quy
tội Ngài đã để họ phải sinh ra, có người cười nhạo khoái trá, có người trịch thượng
hạch hỏi, cũng có người lờm tởm nhổ nước bọt hắng giọng khinh bỉ rồi bỏ đi. Con
thấy tất cả những người này đều muốn nhận được câu trả lời của Đức Giêsu từ trên Thánh Giá nhưng tuyệt nhiên Ngài không nói
gì, không trả lời ai, vẫn gục đầu yên lặng.
Thấy
Ngài gục đầu thấp hơn, và yên lặng sâu hơn, con càng lo sợ, kinh hãi, vì hơn ai
hết, con cần được nghe Ngài nói, cần Ngài sống để cứu con, nhưng lạ lắm, sự yên
lặng xem như thất thế, và tư thế cúi đầu
của người bị đánh gục của Đức Giêsu đã làm con cứng lưỡi, đơ họng, không nói được
lời nào. Không biết có phải con nghi ngờ, không tin Ngài là Thiên Chúa, hay con
không tin con là người có thể được cứu độ, vì con rất bệ rạc, tội lỗi ? Và
mỗi bước nhanh hơn, đến gần hơn ngưỡng cửa vào sự chết, sự yên lặng thất bại của
Đức Giêsu chịu đóng đinh càng làm con bối rối, nghi nan. Cho đến lúc chân phải
con vừa chạm ngưỡng cửa sự chết, thì bất
ngờ có tiếng nói mà con nhận ra ngay là người gian phi đã “được hứa Nước Thiên Đàng ngay
hôm nay” (x.Lc23,43).
Và anh gian phi “được phúc lớn” đã ân cần chỉ bảo con : “Này bạn, chớ có ăn nói hàm hồ, linh tinh, tào lao
như những người đang chửi rủa, thách thức, lên án, diễu cợt Thiên Chúa. Bạn thấy
đó, trước những câu hỏi bất mãn, những hạch hỏi phạm thượng, những chất vấn phản phúc của những người uất hận, kiêu căng, ích kỷ, vô ơn, Đức
Giêsu đã không trả lời, cũng chẳng phân bua, giải trình, biện hộ, nhưng yên lặng
cúi đầu”.
Con
nắm chặt tay anh, vì lúc này, anh đã lại gần bên con, và thân thiện đưa tay cho
con nắm. Con đánh bạo hỏi : “Nhưng
tại sao Đức Giêsu lại trả lời anh và hứa cho anh Nước Thiên Đàng ngay hôm
nay ?”.
Nghe
thế, mặt anh rạng ngời hạnh phúc và ôm lấy con căn dặn : “Đúng vậy, trên Thánh Giá hôm ấy,
ngoài những lời than thở, cầu nguyện với Chúa Cha : “Lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài
bỏ rơi con ?” (Mc
15,34), “Lạy Cha, xin tha
cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34), “Lạy
Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46), và lời trăn trối với thân mẫu : “Đây là con Bà”, và với môn đệ Gioan : “Đây là Mẹ con” (Ga 19,26-27), Đức Giêsu đã
không trả lời ai điều gì, ngoài nói với anh : “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi
trên Thiên Đàng” (Lc
23,43).
Con
vội vàng hỏi : “Nhưng
anh hỏi Ngài điều gì và với cách nào mà Ngài đã trả lời anh, trong khi rất nhiều
người khác nhao nhao, nhốn nháo lớn tiếng hỏi, mà Ngài vẫn cúi đầu yên lặng ?”.
Anh
đâu dám hỏi Ngài, mà anh có gì đâu mà hỏi, bởi suốt đời làm nghề ăn cướp, ăn ở
bất lương, bất chính, tội lỗi đầy mình, có nhân đức, công trạng gì mà khiếu nại,
kêu oan. Thấy Ngài vô tội, bị chết oan, mà chẳng thở than điều gì, hay oán trách
ai, lại bao dung xin Thiên Chúa tha cho cả kẻ làm khốn mình, nên anh cảm phục,
yêu mến Ngài, và tin Ngài chính là Con Thiên Chúa, bởi loài người, chẳng ai có
thể yêu thương, rộng lượng như Ngài. Và vì tin yêu Ngài, anh đánh bạo xin Ngài
thương xót, nhớ đến anh trong Nước vinh quang của Ngài. Không ngờ, Ngài cố nghiêng
đầu qua phiá anh và âu yếm hứa : “Ngay hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”. Dứt lời, anh rút nhẹ tay con
ra, và biến mất.
Chiều
nay, cũng một mình, nhưng trong nghiã trang, như có lần mơ thấy thiên thần dắt
con đi xem phần mộ của mình. Lá vàng đua nhau lã chã rơi phủ kín các dẫy mộ,
sau mỗi cơn thở dốc của gió thu se lạnh, dưới bầu trời giăng kín mây xám buồn.
Hình
ảnh và tiếng nói của “anh
thánh trộm lành” vẫn mồn
một, rõ nét trong con, và con khấp khởi vui mừng vì được “anh thánh” tận tình căn dặn :
“Chúa chỉ trả lời những
ai khiêm tốn xin Ngài thương xót, như đã trả lời và làm phép lạ chữa lành, xua đuổi
ma qủy, cứu sống những ai “xin
Ngài xót thương”, vì chỉ
có lời cầu “Xin Chúa
thương xót con, xin Chúa thương xót chúng con” mới làm Chúa chạnh lòng, vì Ngài là Lòng Thương
Xót ; chỉ lời nguyện nài xin ơn Thương
Xót mới được Chúa đón nhận, bởi chúng ta không là gì, và chẳng có gì vĩ đại để
hạch hỏi, yêu cầu, lại vô cùng bất xứng để có thể khiếu nại, kể công. Chúng ta là tội
nhân, chỉ có tội, có lỗi, có thiếu sót khuyết điểm, nên chỉ có thể khiêm tốn nài
xin lòng thương xót.
Nhớ
lời anh dặn, con tập ngay từ bây giờ lời cầu xin của giờ lâm tử : “Lạy Đức Giêsu, Thiên Chúa của
con, xin thương xót và nhớ đến con !”.
Ngước
nhìn Thánh Giá giữa nghiã trang, con tạ ơn Chúa, cám ơn “anh thánh” gian phi, vì từ nay, con được bình an bước đi từng
ngày gần về sự chết, như ngưỡng cửa vào Đời Sau, nhờ con đã được vị thánh đầu
tiên do chính Đức Giêsu tuyên phong dặn dò : phải thưa với Chúa điều gì và
thưa như thế nào ở giờ lâm chung.
Jorathe
Nắng Tím