Pages - Menu

Thứ Bảy, 30 tháng 3, 2019

NHỮNG CHUYẾN ĐI CUỘC ĐỜI


Đời mỗi người không chỉ là một chuyến đi, nhưng là những chuyến đi liên tiếp, không ngừng: đi từ bào thai trong lòng mẹ vào cuộc đời làm người; đi từ tuổi thơ hồn nhiên, vô tư đến tuổi lập thân, trưởng thành; đi từ tuổi trẻ “kinh bang tế thế” đến tuổi già thất thế, “gần đất xa trời”. Đời người ấy như những chuyến đò, chuyến xe, chuyến tầu lửa, chuyến máy bay đi từ nơi này sang nơi khác, từ Bắc vào Nam, từ Đông qua Tây, từ quê nhà ra nước ngoài, từ Á sang Âu, từ cực Bắc xuống cực Nam. Đời ấy củng đi từ yếu đuối sang mạnh mẽ, từ tối tăm qua ánh sáng, từ rối loạn đến bình an, từ ganh ghét, hận thù sang tha thứ, yêu thương hoặc ngược lại. Và trên những chuyến xe, chuyến tầu ấy, con người không thể đi một mình đơn độc, nhưng đi với người khác, đi chung với nhau; trên hành trình từ bé đến lớn, từ yếu thành mạnh, từ tội lỗi nên thánh thiện, con người không thể “cô thân độc hành”, nhưng từng bước chân đi, từng dặm đường đời luôn có người khác đồng hành. 
    Người khác đồng hành vì ta cần người khác, bởi chuyến đi nào xem ra cũng không thể tự mình thực hiện. 
     Trước nhất là chuyến đi vào đời, nếu không có mẹ cha, làm sao ta vào được cuộc đời? Tiếp đến là hành trình làm người, nếu không có tình yêu và bàn tay chăm chuốt xây dựng của rất nhiều người,  chắc gì đời ta có được hôm nay? 
   Tuy thế, đã có nhiều lúc ta bực bội trách mình sao đã dại khờ, nhẹ dạ gặp gỡ, thân quen với người này người nọ, mà vì họ, đời ta đã “xất bất xang bang”, xuống dốc không phanh, chìm sâu vực thẳm; có nhiều lần ta oán trách hàng loạt “người thân kẻ sơ” đã đến rồi để lại cho đời ta gánh nặng oan khiên. Họ là những người ta gặp trên những chuyến đi, những người đã một lần đồng hành, có thể chỉ “chung đường chung lối” dăm ba bước, vài cây số, nhưng cũng có thể dài lâu, có khi gần hết cuộc đời dài, nhưng cuối cùng thì vẫn phụ tình, phản bội,  “nghìn trùng xa cách”, “lạnh lùng như người dưng”, và để lại trong ta “tai ách đau thương”. 
      Họ là những người ta không cần, nhưng cần ta, hoặc ta đã cần họ, nhưng nay không cần nữa. Họ là những người ta chỉ cần cho một công việc nhất định, nhất thời, giai đoạn, hoặc họ chỉ  cần ta cho một thời vụ, một “phi vụ chớp nhoáng”. Và khi hết thời, xong việc, cả ta và họ đều nóng lòng tìm cách xa nhau cho khỏi phiền phức, bận rộn, cho bớt bẽ bàng, rủi ro. 
   Bên cạnh những người ta muốn quên, hoặc muốn quên ta là những người ta muốn giữ ở lại với ta suốt đời, nhưng ta không đủ sức giữ họ, hoặc họ không muốn ở lại với ta. 
   Vì thế, mỗi chuyến đi là một mạo hiểm, một hành trình mới, những cây số mới, không gian mới, thời điểm mới, bạn đường mới, với hành trang mới, ý nghĩa mới, và suy tư, tâm tình mới. 
   Tính cách mới sẽ đáng trân trọng vì thăng tiến và làm đẹp đời ta khi những chuyến đi hôm nay tích cực hơn những chuyến đi hôm qua, và những chuyến đi tương lai theo dòng đời ngày càng thêm tích cực. 
      Như thế, được gọi là chuyến đi mới khi không bạn đường nào bị ta coi là vô ích, vô dụng , “vô tích sự” trên hành trình đời ta, bởi mỗi người có mặt trong những chuyến đi đều là nhịp cầu cần thiết cho hạnh phúc đời ta. 
     Họ có thể chỉ là nhịp cầu tre chênh vênh, nhưng không có nhịp cầu tre mong manh, vắt vẻo, và cần thiết ở một thời điểm khó khăn, ta đã không vượt qua được thác đá cheo leo, nguy hiểm. Họ có thể chỉ là chiếc cầu khỉ khó đi, nhưng thiếu nhịp cầu thô sơ, chông chênh khi không còn phương tiện nào khác, chắc gì ta đã đạt đích tới chờ mong. Họ chỉ là cây cầu sần sùi, thô kệch, rêu phong, nhưng thiếu bóng dáng họ, không chắc đời ta đã ngời sáng. 
      Do đó, chỉ khi nào ta ý thức những chuyến đi đời ta là những chuyến đi hồng ân, vì gặp những con người đem lại hồng phúc và chính ta cũng là sứ giả mang ơn phúc cho họ, ta mới có thể hạnh phúc bước đi mỗi ngày trên hành trình luôn được tình yêu và ơn an bình thăng tiến, đổi mới. 
    Với người Kitô hữu, trên từng cây số cuộc đời, trong từng chuyến đi dong duổi, chúng ta có Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ hướng dẫn, có Đức Giêsu phục sinh 
là bạn đường đồng hành, có Đức Giêsu là Thiên Chúa của lòng thương xót nâng đỡ, ủi an, chia sẻ. 
   Như trên đường Emmau năm xưa, Ngài đồng hành với  hai môn đệ trên  đường trĩu nặng gánh sầu tang chế; đồng cảm khi lắng nghe tâm sự của hai người thất thế, thất bại; chia sẻ niềm hy vọng sống lại khi ở lại và đồng bàn với họ khi trời đã tối. 
   Hôm nay, cũng Đức Giêsu phục sinh cũng có mặt trong mọi biến cố, trên mọi nẻo đường, ở mọi tình huống, với hết mọi người chúng ta trong những chuyến đi cuộc đời. Ngài có mặt trong anh chị em cùng đi với ta, với lương thực ban sự sống, với ơn hình an và niềm hy vọng. 
    Có Đức Giêsu, mắt ta sẽ được mở ra như hai môn đệ trên đường Emmau để nhận ra Thiên Chúa trong anh em khi ta đồng hành, yêu thương, giúp đỡ, chia sẻ, thứ tha. Có Đức Giêsu đồng hành trong những chuyến đi, Ngài sẽ mở trái tim ta để ta biết trân quý mọi người, dù họ là ai, giầu nghèo, sang hèn, yếu đuối , thánh thiện, bởi tất cả đều là sứ giả, nhịp cầu, cánh tay nối dài của Thiên Chúa giầu lòng thương xót đang xót thương đời ta, và đời mọi người. 


Jorathe Nắng Tím 

THIÊN CHÚA NÀO LÀ THIÊN CHÚA CỦA KITO GIÁO?

Triết học phân biệt căn tính, bản tính và thuộc tính. Căn tính hay bản tính là cái làm nên hữu thể, cái căn bản cho hữu thể được tồn tại. Căn tính người làm cho con người là người, căn tính chó làm cho con chó là chó, căn tính nhà làm cho cái nhà là nhà mà không phải là cái khác. Căn tính hay bản tính xác định chính xác từng loại, từng thứ để giữa các thứ loại không lẫn lộn nhau.
Khác với căn tính, bản tính, thuộc tính là các tính chất thuộc về một hữu thể, nhưng tự nó không làm nên hữu thể. Nó khác căn tính, bản tính, vì thiếu nó hữu thể vẫn tồn tại.
Thí dụ : bản tính người làm nên con người, nhưng những tính chất phụ thuộc như màu da, tiếng nói, trình độ văn hoá, tính tình, thông minh, dốt nát... không làm con người không là người khi thiếu chúng, bởi chúng không phải căn tính, bản tính người để làm nên con người, nhưng chỉ là những thuộc tính luôn mang tính phụ thuộc, vì lệ thuộc căn tính, phụ vào cho bản tính.
Vì thế, khi chọn ai, theo ai, yêu ai ta chọn, theo và yêu chính con người ấy, con người độc nhất, riêng biệt, không “chung chung”, không thể thay thế, hoán chuyển hay pha trộn lẫn lộn. Người ấy có căn tính riêng mà nhờ căn tính riêng biệt, độc đáo, đặc thù, độc nhất, ta không lầm người ấy với những người khác, không lộn người ta yêu với nhiều người chung quanh tuy có thể “hao hao giống”, nhưng “không bao giờ” là người ấy.
Cũng vậy, khi chọn một tôn giáo, chúng ta không thể không biết Đấng thiêng liêng mà tôn giáo ấy tôn thờ là ai, Đấng chúng ta đi theo, phụng sự, tin tưởng, cầu khấn và trao phó vận mạng đời này và tương lai đời sau là Đấng nào? Vẫn biết không ít người phó mặc chuyện tôn giáo cho tổ tiên và an tâm giữ đạo của cha mẹ, ông bà để lại mà không chút thắc mắc, đặt lại vấn đề. Bên cạnh là những người dứt khoát không muốn tìm hiểu, vì coi tôn giáo không cần thiết, mà còn là xì ke, thuốc phiện mê hoặc, phản khoa học, đi ngược trào lưu tiến hoá của nhân loại. 

Với chúng ta, những người lữ hành trên đường đi tìm Chân Lý, Thiên Chúa của tôn giáo chúng ta đi theo và tôn thờ phải được lý trí thao thức, khắc khoải đi tìm, bởi không biết sẽ không yêu, như hai người yêu nhau luôn muốn biết tường tận về nhau. “Vô tri bất mộ” là thế!
Quả thực, vấn nạn Thiên Chúa là ai đã được đặt ra ngay từ khi con người có mặt, bởi con người muốn biết nguồn cội của mình và nguồn cội ấy đã luôn không thỏa mãn khao khát của con người nếu chỉ dừng lại ở con người, bởi nguồn cội ấy chính là Thiên Chúa.
Khi chọn Ápraham, Thiên Chúa đã chúc phúc cho ông và chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ông (x. St 12,2-3), và hơn thế nữa, Thiên Chúa còn khẳng định : “Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc” (St 12,3). Vì thế, ông “dựng bàn thờ để kính Đức Chúa và kêu cầu danh Đức Chúa” (St 12,8), Đức Chúa rất nhân hậu.
Với Môsê, Thiên Chúa nói với ông Ngài là Đấng Hiện Hữu (Xh 3,14), Đấng đang có mặt với dân Ngài trong mọi hoàn cảnh :
“Ta là Thiên Chúa của cha ông các ngươi. ..Ta đã thật sự quan tâm đến các ngươi và cách người ta đối xử với các ngươi bên Ai Cập. Ta sẽ cho các ngươi thoát cảnh khổ cực bên Ai Cập ... lên miền đất tràn trề sữa và mật ong” (Xh 3, 16- 17).
Và suốt dòng lịch sử của Israël, dân riêng, Thiên Chúa đã cho họ biết Ngài là “Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, thương xót, chậm bất bình và nhân nghĩa, thành tín” (Xh 34,6).
Căn tính Thương Xót của Thiên Chúa Israel đã tách biệt dân riêng của Ngài khỏi các dân khác đang thờ các thiên chúa khác với những căn tính hoàn toàn khác Ngài, Thiên Chúa của Ápraham, Isaác và Giacóp (Xh 3,16).
Là Thiên Chúa của lòng thương xót, căn tính của Ngài là Tình Yêu, mà không là những thuộc tính như toàn năng, công minh chính đại, khôn ngoan, thông biết mọi sự, vô thuỷ vô chung, phân minh thưởng phạt. Những thuộc tính này không thay thế căn tính Tình Yêu nhưng được bao bọc bởi căn tính Tình Yêu để hoạt động dưới sự hướng dẫn và tác động của Tình Yêu, nghĩa là toàn năng cũng chỉ là toàn năng của tình yêu, công bình cũng chỉ là công bình trong yêu thương, phân minh thưởng phạt cũng chỉ là thưởng phạt phân minh, công bằng vì thương xót. Căn tính tình yêu thực sự bao trùm tất cả, và tất cả đều phải quy hướng về.
Thực vậy, dòng dã lịch sử Israel, Thiên Chúa đã cưu mang, khai sinh, nuôi dưỡng, giáo dục dân Ngài bằng tình yêu của người mẹ như ngôn sứ Isaia đã viết : “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ” ( Is 49, 15); đã kiên nhẫn chịu đựng những cứng cỏi, ương ngạnh, bất trung và phản nghịch của dân Ngài với tình yêu trung tín ( Xh 34, 7); đã quả cảm giữ đến cùng lời thề của giao ước yêu thương, dù không ngừng bị bội phản. Tắt một lời, Thiên Chúa đã chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa tình yêu khi không ngừng “thương xót từ đời nọ đến đời kia những ai kính sợ Ngài” (Lc 1, 50)
Tuy thế, không phải tất cả đã đón nhận Thiên Chúa là Tình Yêu. Trái lại có nhiều người không chỉ khước từ căn tính tình yêu của Thiên Chúa, mà còn muốn căn tính yêu thương ấy phải được thay thế bằng những thuộc tính thực dụng khác như Thiên Chúa oai hùng, dũng mạnh để tức khắc nghiền nát đối phương, lập tức “ăn tươi nuốt sống” kẻ thù; Thiên Chúa nghiêm khắc để thẳng tay trừng phạt, không thương tiếc phường tội lỗi, sa đọa mà không chần chừ, do dự, xót xa; Thiên Chúa tuyệt đối công minh, để việc gì cũng chiếu theo Luật mà xét xử, không chút nương tay, khoan hồng; Thiên Chúa “chí công vô tư” đến vô cảm, tàn nhẫn, không chạnh lòng thông cảm trước yếu đuối, lỡ lầm; Thiên Chúa chi li, không sai lệch từng phân li công tội đến băng giá lạnh lùng khi xét xử; Thiên Chúa ngăn nắp, trật tự như đòi hỏi của cơ chế hành chánh; Thiên Chúa chắc nịch, “bất di bất dịch” như từng dấu chấm, dấu phẩy nặng nề, ì ạch cuộn mình trong các khoản luật ngạo nghễ tự coi là tuyệt đối hoàn hảo và đời đời không thể sửa đổi, cải tiến đang trói buộc tự do của những người con được mang hình ảnh của cha mình là Thiên Chúa.
Những người này đã không bao giờ tìm thấy hạnh phúc trong Thiên Chúa, Đấng có tên là Tình Yêu, và nhiều cuộc nổi loạn chống Thiên Chúa và phá bỏ Giao Ước với Ngài đã từ đó phát sinh.
Đến thời Tân Ước, khi Đức Giêsu, Đấng là dung mạo đích thực của Thiên Chúa Tình Yêu có mặt trong thế giới , giữa mọi người, Ngài cũng được những người đương thời xôn xao thắc mắc hỏi nhau về căn tính của Ngài : “Ông Giêsu này là ai vậy ?”, và chính Ngài cũng có lần hỏi các môn đệ : “Các con bảo Thầy là ai?” (Mt 16,15).
Trong bất cứ khẳng định nào về căn tính, Đức Giêsu đều quả quyết Ngài đến từ Thiên Chúa, được Chúa Cha sai đến để thực hiện ý muốn của Chúa Cha, và chính Ngài với Thiên Chúa Cha là một. Điều này xác định căn tính của Ngài là căn tính của Thiên Chúa và Tình Yêu chính là căn tính ấy như thánh tông đồ Gioan đã minh định không chút nghi ngại trong thư thứ nhất của ngài:
“Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4,7-8).
Vì Thiên Chúa là Tình Yêu, nên sự thật ở Thiên Chúa là sự thật của Tình Yêu, chứ không là sự thật trắng trợn bị lột trần bởi cán bộ điều tra, quan toà; Đường của Thiên Chúa là đường Tình Yêu dẫn đến hạnh phúc, chứ không là “đường đi không
Con Thiên Chúa hằng sống”(Mt 16, 16), đến”, hay mê lộ, tử lộ, ngõ cụt, đường cùng; sự sống nơi Thiên Chúa cũng là sự sống phát xuất từ Tình Yêu, được nuôi dưỡng bằng Tình Yêu, chứ không là sự sống “không lẽ sống”, nên lời tuyên xưng của thánh Phêrô : “ Thầy là Đức Kitô, khi thay mặt anh em tông đồ trả lời câu hỏi của Thầy: “Các con bảo Thầy là ai ?” đã xác tín Đức Giêsu là Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu hiện hữu, Đấng Hiện Hữu
trong Tình Yêu, Nguồn Sống đời đời phát xuất từ Tình Yêu hiện hữu.
Thánh Gioan đã sống với Đức Giêsu và cảm nghiệm sâu xa căn tính Tình Yêu của Thiên Chúa nên đã viết: “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống” (1Ga 4, 9). “Và Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian và yêu thương họ đến cùng” (Ga 13, 1).
Chân lý ấy được minh chứng hùng hồn bằng cái chết vì người mình yêu, cho hạnh phúc của người mình yêu trên Thánh Giá của Đức Giêsu, “Thiên Chúa làm người” , mà “ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ” (Cv 4, 12). Thánh Giá còn là dấu chỉ của Thiên Chúa là Tình Yêu đã yêu con người đến cùng, yêu đến hơi thở cuối cùng, cây số sau cùng, trong vô cùng của Tình Yêu.
Nếu thời Cựu Ước, nhiều người đã tạc bò vàng để thờ (Xh 32, 1-6), dù đã biết và đang sống dưới bóng yêu thương của Thiên Chúa là Tình Yêu, chỉ vì không chấp nhận Thiên Chúa là Tình Yêu mà muốn Thiên Chúa phải là đấng nào khác, với căn tính khác, thì dưới thời Tân Ước và cho đến tận thế, vẫn không thiếu những người chống lại Tình Yêu là Thiên Chúa, tìm lật đổ, hạ bệ Thiên Chúa là Tình Yêu, bởi Thiên Chúa Tình Yêu ấy cản trở mưu mô, thủ đoạn của trí khôn họ; làm phiền toái con tim đầy gian tham, ích kỷ của họ; gây khó khăn cho những toan tính hận thù, ganh ghét của tâm hồn họ; làm bực bội, xốn xang lòng dạ không nhân nghĩa của họ; làm rối rắm, mệt mỏi lương tâm ngày càng biến thái, tha hóa của họ; biến tâm can họ thành bãi chiến trường của những giằng co giữa thiện và ác, trung thực và gian dối, tốt lành và xấu xa, thánh thiện và quỷ quái, bởi được sinh ra từ Tình Yêu của Thiên Chúa, con người sẽ là hình phạt hỏa ngục của chính mình khi đi ngược ơn gọi yêu thương của mình.
Được sinh ra bởi Thiên Chúa tình yêu, nên hạnh phúc đích thực của con người không thể là gì khác ngoài tình yêu, cũng như nguồn duy nhất đem lại hạnh phúc cho con người là Thiên Chúa Tình Yêu. Ở ngoài Thiên Chúa, không tình yêu nào đảm bảo hạnh phúc viên mãn, tròn đầy. Vắng bóng Thiên Chúa là Tình Yêu, tai họa của ganh ghét, hận thù, bạo lực sẽ đổ ập xuống đời con người như lẽ tự nhiên, thường tình.
Quả thực, căn tính của Thiên Chúa trong Đức Giêsu là Tình Yêu, và trong tình yêu, con người gặp được Thiên Chúa, mà gặp gỡ Thiên Chúa, đi vào tương quan với Thiên Chúa chính là mục đích của tôn giáo, và niềm tin.
Kitô giáo là tôn giáo có Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu, nên “ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1Ga 4, 16).
Và con đường có Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người đồng hành với con người không thể là con đường nào khác ngoài con đường Yêu Thương, vì Thiên Chúa là Tình Yêu đã chọn đi trên con đường này để đến gặp loài người chúng ta.

Jorathe Nắng Tím