Tháng
Mười Một gợi nhớ nhiều về sự chết, người chết, và cũng nhắc nhớ sẽ đến phiên mình
chết một ngày : xa gần không biết, ở đâu không hay, cách nào không rõ, nên
mỗi năm khi tháng cầu cho các linh hồn về, nghe lòng như chùng lại, tim se thắt,
xót xa, và cổ họng đắng chát phận buồn “con
người biết mình phải chết”.
Phải
chết một ngày vì là con người, bởi đã là người thì phải chết như án lệnh từ đời
đời cho cả loài người, và cứ thế, người trước kẻ sau, bất phân mầu da, tiếng nói,
tuổi tác, giai cấp, trình độ…, người người nối đuôi nhau, tiếp theo nhau nhận lệnh
lên đường “đoàn tụ với tổ tiên, ông bà”
bỏ lại cuộc sống, giã từ trần gian, đi vào cõi chết, mà không thể trì hoãn, gia
hạn hay khiếu nại, thắc mắc, cũng không kéo được ai theo mình, hay mang theo được
sự gì dù cỏn con, bé bỏng, nhẹ nhõm, ngay cả như hơi thở trước ngưỡng cửa vào
thế giới hoàn toàn xa lạ, bí mật, chưa một lần tham quan, khảo sát …
Nhìn
người chết vô hồn, bất động, cứng đơ, lạnh lẽo, ai cũng hiểu chết là chấm hết mọi
chức vụ, dù người ấy có đang tại chức Giáo Hoàng, Giám Mục chính toà, nguyên thủ
quốc gia, chủ tịch, giám đốc ; chết là chấm dứt mọi uy quyền, dù người ấy đang
nắm giữ quyền sinh sát toàn thế giới, hay là nhà độc tài “hét
ra lửa, thở ra khói” làm mọi người phải rụng rời, kinh
sợ ; chết là kết thúc mọi chiến dịch vận động tìm kiếm của cải, thành công, vinh quang, huy chương, bằng
tưởng thưởng ; là đóng lại mọi ước mơ, kế hoạch, đồ án, chương trình, dù là
những kế hoạch “kinh thiên động địa”,
hay những chương trình “chuyển núi rời non”.
Nhưng đồng thời chết cũng là trả hết nợ đời, trút bỏ gánh sầu buồn, tủi nhục của
một đời nghèo đói, thất học, không gia thế, địa vị, bị người đời khinh khi, vùi
dập, khai thác, bóc lột, lợi dụng ; chết cũng là giã từ những uất nghẹn
khi bị người đời chụp mũ oan sai, vu khống hồ đồ, lên án oan uổng, và chết cũng
là gửi lại đời những đẳng cấp, số má, bon chen, đấu đá, thị phi, tranh giành.
Nhưng
nếu chết là hết, là dấu chấm hết to đùng làm “đứng
hình, tắt phim” tất cả và thực sự không còn gì sau
dấu chấm hết này nữa thì coi như đã xong, đã hoàn tất mọi việc, mọi sự, và không
còn gì lấn cấn, vướng víu : người giầu có, uy quyền, khỏe mạnh đã may mắn
hưởng một đời hạnh phúc, còn người nghèo khổ, hèn hạ, tật nguyền thì đành chịu đã
không may mắn trải qua một đời làm người bất hạnh, để chết rồi người may mắn, kẻ
xui xẻo cũng như nhau ở kiếp tro bụi hư vô, không còn là bất cứ sự gì nữa, và cũng
chẳng phải bận tâm lo nghĩ nhân qủa, thưởng phạt.
Trái
lại, có nhiều dấu hiệu, nhiều điềm lạ, nhiều biến cố cho thấy : chết không
hết, xác có tan rữa đấy, nhưng hồn vẫn còn đây. Trong giấc ngủ nửa mơ nửa tỉnh,
người thân tuy đã chết nhưng vẫn thênh thang về gặp ; trong lời kinh tưởng
nhớ, vẫn thấy gắn bó, gần gũi như ngày xưa những bóng hình đã khuất ;
khói nhang quyện “hương lòng”
trước bàn thờ, di ảnh người quá cố vẫn nghe xôn xao, se thắt nỗi nhung nhớ, niềm tiếc thương… Phải rồi, người
chết vẫn sống, vì linh hồn con người bất tử, người chết vẫn còn quanh đây, vì
cuộc sống dương thế đã không chỉ toàn là bụi tro, nhưng còn là những “thiêng
liêng, đời đời, tuyệt đối”.
Trong Tin Mừng, Đức Giêsu đã khẳng định chân
lý này :
· “Nếu
người ta được cả thế gian, mà mất sự sống đời đời thì nào có ích lợi gì ?”
(Mt 9,26)
· “Qủa
thế, trong ngày sống lại, người ta chẳng lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các
thiên thần trên trời. Còn về vấn đề kẻ chết sống lại, thì các ông không đọc
lời Thiên Chúa đã phán cùng các ông sao ? Người phán : Ta là Thiên Chúa
của Ápraham, Thiên Chúa của Ixaác và Thiên Chúa của Giacóp. Người không phải là
Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống”
(Mt 22,30-32).
· “Phúc
cho ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ… Anh em hãy vui mừng
hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em trên trời thật lớn lao”
(Mt 5,3.12).
· “Anh
em chớ mừng vì qủy thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em
đã được ghi trên trời”
(Lc 10,20).
Đức
Giêsu nói cho chúng ta, những người biết mình sẽ phải chết, nhưng không biết chết
là gì, và chết rồi đi đâu điều này, đó là tất cả mọi người sẽ sống lại sau khi đã
chết, có một sự sống vĩnh cửu, không bao giờ bị gián đọan sau sự sống này, có một
vương quốc thuộc về Thiên Chúa sau cuộc sống dương thế, có một phần thưởng lớn lao, có một danh sách ghi tên những người
được ở trên trời, và Thiên Chúa là Thiên Chúa hằng sống, Thiên Chúa của người sống.
Nhưng
vấn đề quan trọng ở đây là phải có điều kiện nào để được hưởng những điều Đức
Giêsu vừa kể, sau khi chết. Đây chính là
“bí mật cứu độ”
của Thiên Chúa đã được Đức Giêsu mặc khải cho những người bé mọn, vì trong thế
giới của những kiêu căng, quyền lực, hưởng thụ, xa hoa, bí mật này dù có được công
bố trên mái nhà, người ta cũng không mấy quan tâm, như Đức Giêsu đã nhiều lần lên
tiếng : “Vậy, tôi phải ví người của thế hệ này
với ai ? Họ giống ai ? Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi nhau mà
nói : Tụi tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa ; tụi tôi
hát bài đưa đám, mà các anh không khóc than”.
Thật vậy, ông Gioan Tẩy Giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ông bảo :
“Ông ta bị qủy ám”.
Con Người đến cũng ăn cũng uống như ai, thì các ông lại bảo : “Đây
là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi”
(Lc 7,31-34). “Ai có tai nghe thì nghe”
(Lc 8,8).
1. Điều
kiện thứ nhất : tin nhận Thiên Chúa
là Tình Yêu không đổi dời, vô cùng và đến cùng :
Như
người con thứ hoang đàng trong dụ ngôn “Người
cha nhân hậu” đã có thể đứng dậy, lên đường trở
về, vì anh đã tin Cha lúc nào cũng một mực yêu thương : yêu thương khi con
ngoan ngoãn, vâng lời, yêu thương cả khi con ngang ngược, bất hiếu đòi chia gia
tài khi cha còn sống ; vì anh đã tin tình Cha vô cùng bao la, hải hà, để yêu
anh đến tận bước chân cuối cùng ở đường cùng “thân
tàn ma dại”, sau khi đã ăn tiêu hết sạch tiền
bạc, và lâm cảnh túng thiếu, phải đi ở đợ và chỉ dám ao ước lấy cám heo mà nhét
cho đầy bụng (x. Lc 15,11-20).
Một
khi tin tình yêu Thiên Chúa không đổi dời như tình con người dành cho nhau nay
còn mai mất, hôm nay nồng nàn, ngày mai hờ hững, sớm mai sôi nổi, chiều về đã lạnh
tạnh, hay khi vui thì đam mê, tha thiết, lúc buồn thì ngao ngán, dửng dưng, con
người mới an tâm đi vào đời sau, mới tin tưởng bước vào đời đời, mà không hoang
mang, sợ hãi bóng đêm sự chết; có tin Thiên Chúa là Cha nhân hậu, luôn
trung tín với tình yêu bao dung dành cho con cái mình, con người mới bình an nhắm
mắt, xuôi tay từ bỏ thân xác tro bụi để đi vào lòng Đấng đã tạo dựng nên mình vì
yêu thương ; có tín thác ở Thiên Chúa, Đấng chỉ muốn băng bó, chữa lành,
giải thoát và cứu độ ; Đấng “không
đành bẻ gẫy cây lau bị giập, chẳng nỡ tắt đi tim đèn còn leo lét”
(Mt 12,20), con người yếu đuối, tội lỗi ở giờ chết mới dám ngước mắt thân thưa trước
Thiên Chúa như người con trở về : “Lậy
Cha, con đã đắc tội với Trời và với Cha”
(Lc
15,18).
2. Điều
kiện thứ hai : yêu thương anh em như chính mình đã được Thiên Chúa yêu
thương :
Có
một điều không thể chối cãi, đó là ai cũng có khả năng yêu thương, mà không ai
có thể tị nạnh : người khác có khả năng yêu thương hơn tôi, hoặc tôi không
biết yêu thương, không yêu thương “giỏi”
như người khác. Trái lại, quà tặng đồng đều của Thiên Chúa cho mọi người là khả
năng yêu thương, nên bất cứ ai, ở thời nào và ở đâu, trẻ già lớn bé, giầu nghèo,
sang hèn, bất kỳ chỗ đứng nào trong gia đình, xã hội cũng đều có khả năng yêu
thương như nhau và được Thiên Chúa mời gọi yêu thương như Ngài.
Vì
thế, Đức Giêsu đã không đề ra một danh sách những hành trang con người phải
mang theo đến trước Nhan Thiên Chúa khi chết, hay những tặng vật con người phải
chuẩn bị để biếu xén, mua chuộc Thiên Chúa như con người thường làm đối với người
có quyền, có chức, có ảnh hưởng ở thế gian, nhưng Ngài đã chỉ đưa ra một hành
trang duy nhất mà con người phải mang theo khi chết, nếu muốn được vào Nước Trời,
được sự sống đời đời, đó là Tình Yêu dành cho đồng loại.
Vì
tất cả đã nhận đồng đều tình yêu để yêu, nên ai nấy, dù quyền cao chức trọng đến
đâu, cũng phải đệ trình Thiên Chúa việc làm yêu thương của mình ; vì tất cả
đã nhận cùng một vốn liếng Tình Yêu như nhau, nên không ai, dù thuộc phẩm trật
cao cả đến cỡ nào, cũng không được miễn trừ trả lời việc làm sinh sôi nẩy nở nén
bạc tình yêu ; vì tất cả đã được đồng đều trao ban tình yêu để yêu như ơn
gọi, sứ vụ, nên không ai tránh được câu hỏi về quá trình yêu thương của mình trước
Thiên Chúa ; vì tất cả khi chết đều
phải bỏ lại mọi người, mọi sự, mọi vương trượng, mũ mão, quyền lực, tiền của,
danh vọng, nên ai cũng sẽ chỉ trơ trọi một mình với Tình Yêu là hành trang duy
nhất; vì tất cả đã phải như nhau trở về tro bụi, khi tất cả những gì thuộc vật
chất đã tiêu tan, nên ai nấy chỉ còn lại linh hồn thiêng liêng với tình yêu bất
tử là hình ảnh của Thiên Chúa hằng sống, đời đời.
Như
thế, con người hoàn toàn như nhau trước
Toà Thiên Chúa, khi ai cũng như ai : không mang được gì, cho dù cả thế giới
là của mình ; không thể mua chuộc, mánh mung, đút lót, vì tất cả những gì đã
có đều trở thành hư vô, và ai nấy chỉ còn lại Tình Yêu là hành trang để đi vào
cõi hằng sống ; chỉ còn Tình Yêu là gia sản có giá trị, được phép mang
theo ; chỉ còn Tình Yêu là thông hành phải xuất trình để được nhận vào Nước
Trời ; chỉ còn Tình Yêu là dấu hiệu để được nhận ra là Con Thiên Chúa ;
chỉ còn Tình Yêu là “gien ADN”
để được khai sinh trong gia đình Thiên Đàng, và chỉ còn Tình Yêu để được nghe chính
Đức Giêsu từ Toà vinh quang phán:
“Hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc,
hãy đến thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thưở tạo thiên lập
địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn ; Ta khát,các ngươi đã cho uống ;
Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước ; ta trần truồng, các ngươi đã cho
mặc ; Ta đau yếu ; các ngươi đã thăm viếng ; Ta ngồi tù, các ngươi
đến hỏi han”… Và Ta bảo thật : “mỗi
lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là
các ngươi đã làm cho ta vậy”
(Mt 25,34-36.40).
Qủa
thực, niềm an ủi và hy vọng duy nhất của con người biết mình phải chết là sẽ được
chết trong Thiên Chúa là Tình Yêu thương xót, như người đầy tớ mắc nợ vua kia mười
ngàn yến vàng, bị đòi đến trước mặt Vua, nhưng không có gì để trả, đã sấp mình
xuống bái lậy xin Vua rộng lòng hoãn lại kỳ hạn. Vua “chạnh
lòng thương, cho y về và tha luôn món nợ” (Mt
18,27). Tha hết món nợ kếch xù cho anh, Đức Vua chỉ mong anh cũng biết xót thương
anh em như vậy. Nhưng rất tiếc cho anh, thay vì tha cho người bạn chỉ mắc nợ một
trăm quan tiền, món tiền không là gì so với mười ngàn yến vàng anh vừa được Đức
Vua xóa nợ, anh đã “mê muội, ích kỷ, ki bo, tàn ác, nhẫn
tâm” đến độ cứ tống anh bạn mắc nợ kia “vào
ngục cho đến khi trả xong nợ”,
dù anh bạn khốn khổ, túng quẫn ấy đã sấp mình xuống và hết lời van xin. Và cái
kết không ngờ đã đến với anh, khi Đức Vua biết chuyện đã cho đòi y đến và
bảo : “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết
số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải
thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao ?”.
“Rồi Đức Vua nổi giận, trao y cho lính
hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho Vua”
(Mt 18,32-34). Và Đức Giêsu đã kết luận : “Ấy
vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người
trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình”
(Mt 18, 35).
Lậy
Đức Giêsu, Đấng từ bi, nhân hậu, con biết con sẽ chết, nhưng không biết bao giờ
chết và chết cách nào. Vì nhiều tội, lắm lầm lỗi, đầy thiếu sót, ngập khuyết điểm,
nên con sợ giờ chết, sợ Chúa thịnh nộ từ chối con, không cho con đứng về phiá bên
phải của những người lành được chúc phúc vì
họ đã sống một đời yêu thương, thực hành lòng thương xót.
Vì
sợ nên con run rẩy sấp mình van xin Chúa thương xót, tha cho con món nợ Tình Yêu
khổng lồ mà con biết sẽ không sao trả nổi. Và để được Chúa chạnh lòng thương,
tha thứ, con hứa sẽ không “độc
ác” như người đầy tớ không có lòng thương
xót trong Tin Mừng mà chính Chúa đã kể, nhưng còn ngày nào được sống trên dương
thế này, con sẽ cố gắng thực hiện từng bước Yêu Thương, Tha Thứ trên đường về đời
sau.
Xin
Chúa thương xót và nhớ đến chúng con trong Nước Chúa, nếu hành trang của chúng
con ở giờ chết còn nhẹ tênh, chưa xứng đáng, Chúa nhé !
Jorathe
Nắng Tím