Pages - Menu

Thứ Sáu, 20 tháng 3, 2020

MÙA CHAY TRUYỀN GIÁO (11)


                               Suy Niệm 11: TRUYỀN GIÁO PHÒNG THỦ
Lịch sử Giáo Hội cũng như lịch sử Israel đều chung một đặc điểm là có nhiều vết xám loang lổ, những vết xám của yếu đuối, bất trung, sai lạc và lầm lỗi.
Tuy cùng là dân đựợc Thiên Chúa chọn để sống theo giáo huấn của Ngài, nhưng vì là lịch sử của con người, lịch sử được làm nên bởi con người, nên Israel cũng như Giáo Hội đã không thiếu những thăng trầm của đoàn lữ hành trên đường dài vạn dặm, những giai đọan tha thiết trung thành bên những năm tháng thờ ơ phản bội, những bình minh hạnh phúc khi Giao Ước với Thiên Chúa được tôn trọng, và những đêm đen bất hạnh khi thay thế Thiên Chúa bằng ngẫu thần.
Riêng Giáo Hội, một Giáo Hội mà sự bền vững được công khai bảo đảm bởi chính Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghiã là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16,18) cũng nhiều lần, nhiều cách, ở nhiều thời điểm của lịch sử đã không tránh khỏi những vấp ngã nặng nề, gương xấu tai hại, sai lầm chống lại Tin Mừng, và ngược với ý muốn của Đấng Sáng Lập.
Sống lại những chặng đường đen tối của Giáo Hội, chúng ta nhận ra một điểm khá quan trọng : một trong những nguyên nhân đã đem lại tình trạng không tốt đẹp cho Giáo Hội, đó là chủ trương một Giáo Hội phòng thủ, khi Giáo Hội dồn mọi nỗ lực củng cố hệ thống cơ cấu tự vệ, mà quên “đi ra, đi xa, đi  khắp nơi” như lệnh lên đường truyền giáo của Đức Giêsu: “Chúng ta hãy sang bờ bên kia” (Mc 4,35), “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15).
Khi chỉ say mê củng cố Giáo Hội như pháo đài, với những cơ cấu tuyệt vời, hệ thống tổ chức hoàn hảo, quy chế hành chánh chặt chẽ, luật lệ nội bộ kín kẽ, thì Giáo Hội sẽ dễ bỏ quên sứ mệnh truyền giáo, và biến dần thành một Giáo Hội với khuynh hướng phòng thủ, tự vệ.  
Giáo Hội phòng thủ là một Giáo Hội “đóng kín cửa, vì sợ”: sợ người Do Thái như các môn đệ ngày xưa, sau khi Thầy bị tử hình đóng đinh, nay Giáo Hội sợ người lạ, sợ tư tưởng lạ, sợ những đổi mới của thời đại, sợ những phản biện của đám đông, sợ cả ý kiến của chính những người trong hàng ngũ của mình.  
Giáo Hội phòng thủ là một Giáo Hội khép kín trái tim vì sợ phải thương xót, vì thương xót là một việc không luôn đem lại thoải mái, lợi nhuận, nhưng luôn làm nặng lòng, đau lòng.
Giáo Hội phòng thủ là một Giáo Hội nhắm mắt vì sợ đối diện nhiều người không thích mình, bất đồng ý kiến, chống phá mình, làm mình phải nhức đầu, bực bội.
Giáo Hội phòng thủ là một Giáo Hội khoanh tay, vì sợ phải mở cửa nhà mình cho những con người bất toàn, bất hảo, bất chính thường đem đến cho mình nhiều phiền phức, rắc rối, bất lợi.
Giáo Hội phòng thủ là một Giáo Hội tự buộc chân mình, để không phải đi đâu, đến với người nào, vì ở ngoài Giáo Hội phần đông là những con người “không biết điều, không ra làm sao”, khó thương, khó bảo, khó trị.
Giáo Hội phòng thủ là một Giáo Hội bịt tai không muốn lắng nghe, vì “bảo thủ” với những gì mình có, và “cố chấp” không muốn lắng nghe “người ngoài” để khỏi bị phân tâm, rối trí, mất phương hướng, mất lập trường.   
Giáo Hội phòng thủ là một Giáo Hội “ao tù” vì không giao lưu với các con suối, giòng sông, đại dương, và ngột ngạt vì thiếu dưỡng khí trong lành, do bịt kín, đóng chặt, vì sợ lây nhiễm vi-rút do gặp gỡ, trao đổi, chung đụng.
Giáo Hội phòng thủ còn là Giáo Hội “ốc đảo”, muốn một mình sung túc, thịnh vượng, giữa đại dương bao la của thiếu thốn, nghèo nàn hay gây nhiều phiền toái.         
Vì não trạng phòng thủ, vì lối sống tự vệ, Giáo Hội sẽ biến thành một pháo đài chiến đấu, bởi người ta phải chiến đấu nên mới phòng thủ, nhắm tới cuộc chiến mới phải cẩn mật đề phòng, nên có phòng thủ tất phải có chiến đấu, có tự vệ tất phải có tấn công. 
Cũng thế, vì phải chiến đấu, người ta bắt buộc phải ở trong tình trạng phòng thủ, tự vệ liên tục ngày đêm. Và khi phải liên tục phòng thủ như thế, chuyện rời bỏ pháo đài, ra khỏi lô cốt để “qua bờ bên kia”, tức liều lĩnh, mạo hiểm ra xa, ra sâu, rời căn cứ an toàn được kiên cố xây dựng và cẩn mật bảo vệ sẽ là một chuyện rất khó thực hiện, vì ai nấy đều sợ rủi ro, nguy hiểm.
Tin Mừng Máccô làm chứng: sứ mệnh “qua bờ bên kia”, bài sai “ra xa, ra sâu” là một thách đố rất lớn: Khi thuyền các môn đệ vừa rời bến để đi qua bờ bên kia, thì “một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi đầy nước” (Mc 4,37). Và các môn đệ phải một phen thất kinh, hoảng sợ phải đánh thức Đức Giêsu dậy và nói: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi...” (Mc 4,38).            
Chính vì nguy hiểm, nhiều đe dọa và thường xuyên ở vào “thời không thuận lợi”, mà truyền giáo trở thành một công tác khó khăn, dễ làm “nản lòng chiến sĩ”, dù đó là bổn phận chính yếu của người chiến sĩ đức tin. Và khi truyền giáo mang về tâm trạng lo lắng vì khó khăn, sợ sệt vì nguy hiểm, hoang mang vì phải xa pháo đài an toàn, người Kitô hữu sẽ đi vào khuynh hướng thích xây dựng cơ cấu bảo vệ đức tin hơn làm chứng đức tin, mong muốn ở gần “nhà thờ” với đồng đạo hơn đến với với người chưa quen, giữa chốn xa lạ .
Vì thế, “ra đi” càng xa xôi, “ra xa” càng phức tạp, “ra sâu” càng nhiều sóng gió, người tín hữu càng muốn ở lại bờ, bám trụ cơ sở, canh gác đồn bót, bảo vệ tổng hành dinh, phòng vệ phủ toàn quyền; cũng như “lên đường” càng nhiều đe dọa, người có đạo càng ngại ngùng, do dự, vì ở nhà bảo vệ “ấp chiến lược” giáo xứ, giáo họ, giáo phận vẫn an toàn hơn, bám chặt cơ chế, tổ chức vẫn vững tâm hơn phải lên thuyền ra khơi, phải mạo hiểm lên đường.  
Cũng vì “ở bên ngoài” nhiều nguy hiểm, nhiều chống đối, nhiều lạnh lùng và “bờ bên kia” nhiều sóng gió, nhiều đe dọa, nhiều bất ngờ bất lợi, mà người tín hữu dễ bị đẩy vào tâm trạng lo ngại cho chính sự bền vững của pháo đài cơ cấu, và từ đó, tinh thần giữ đạo kiểu phòng thủ, truyền giáo kiểu tự vệ theo thời gian sẽ ăn sâu, đậm nét, sói mòn tinh thần truyền giáo đích thực, vì một ý nghĩ tiêu cực, rất sai lầm và nguy hiểm: nếu mình không cẩn thận phòng thủ, thì có ngày pháo đài đức tin kiên cố sẽ bị lung lay, sụp đổ.
Rơi vào tình trạng đức tin phòng thủ, cũng là giữ đạo kiểu tự vệ, người tín hữu sẽ không chỉ rơi vào tình trạng co cụm giữa “mình với mình, người mình với người mình, đạo mình với đạo mình”, mà còn rơi vào lối sống đức tin kiêu căng: cho mình là chính quy, chính thống, chính danh, chính thực, để độc quyền chân lý, độc đoán phán xét, độc tài cai trị. Vì thế mới có những bước chân sai lầm của “thánh chiến”, “toà án dị giáo”, “dàn hoả thiêu” làm méo mó dung mạo Đức Giêsu nhân hậu, làm sai lệch Tin Mừng cứu độ, làm thất vọng nhiều tâm hồn khắc khoải đi tìm Thiên Chúa của lòng thương xót.
Đức tin phòng thủ, tự vệ còn làm nghèo nàn, cằn cỗi, suy yếu Giáo Hội, vì thiếu sức sống của Chúa Thánh Thần, bởi Thánh Thần chỉ ban sức sống của Ngài khi cửa nhà Giáo Hội được mở ra để người tín hữu ra đi, nhà truyền giáo lên đường “làm cho muôn dân trở thành môn đệ”, vì chỉ khi đó việc “nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” mới có hiệu qủa (Mt 28,19).
Thực vậy, người tín hữu chủ trương lối sống đức tin phòng thủ, tự vệ không thể là người Kitô hữu như ý Chúa muốn, vì họ không sống tinh thần truyền giáo đích thực, bởi đã truyền giáo thì phải bỏ nhà ra đi, như các môn đệ bỏ mọi sự của mình, thuộc về mình mà đi theo Đức Giêsu lên đường  truyền giáo ; bởi đã truyền giáo thì không thể ở lì trong nhà, cố thủ pháo đài đức tin, nhưng phải đi ra ngoài, lao mình vào thế giới  đông người, xô bồ, hỗn tạp để gặp gỡ, làm quen và làm chng; bởi truyền giáo là đến với người khác, không để áp đặt một đức tin kiểu càn quét, xâm lăng, chiếm hữu, độc quyền, nhưng để giới thiệu bằng làm chứng với một tinh thần yêu mến, tôn trọng tự do và thái độ thân thiện, huynh đệ, bình đẳng.
Như thế, nhà truyền giáo phải tránh não trạng phòng thủ khi loan báo Tin Mừng, tránh thái độ loại trừ, tự vệ khi rao giảng Đức Giêsu, vì phòng thủ sẽ không thể hồn nhiên, thân thiện và cởi mở khi gặp gỡ; loại trừ, tự vệ sẽ dè dặt, đề phòng, ngờ vực hết mọi người, mà Tin Mừng thì phổ quát, và Đức Giêsu chịu đóng đinh là Đấng Cứu Độ duy nhất của toàn thể nhân loại.
Với não trạng phòng thủ, nhà truyền giáo sẽ mang cùng một lúc hai thái độ: một là kiêu căng, ích kỷ, vì không muốn mở ra cho ai, chia sẻ, thông ban cho người nào; hai là loại trừ, hiếu chiến, khi nhìn người khác với đôi mắt nghi ngại, thiếu tin tưởng, thân thiện, do ý nghĩ phải cẩn trọng phòng thủ để bảo vệ bằng mọi giá pháo đài đức tin, mà không tin vào đường bay không biên giới của Chúa Thánh Thần.
Thánh sử Máccô rất tinh tế khi liên tiếp thuật lại việc Đức Giêsu bảo các môn đệ “ra khơi”. Lần thứ nhất, ở chương 4, thánh sử kể: “Hôm ấy khi chiều đến, Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Chúng ta sang bờ bên kia đi!” (Mc 4,35). Thế rồi sóng gió nổi lên, mà Ngài vẫn ngủ, cho đến khi các môn đệ hoảng hốt đánh thức dậy, Ngài đã truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!” (Mc 4,39). 
Lần thứ hai lý thú hơn dưới ngòi bút của thánh sử:“Lập tức, Đức Giêsu bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia về phía thành Bếtxaiđa trước, trong lúc Người giải tán đám đông. Sau khi từ biệt các ông, Người lên núi cầu nguyện. Chiều đến, chiếc thuyền đang ở giữa biển hồ, chỉ còn một mình Người trên đất. Người thấy các ông phải vất vả chèo chống, vì gió ngược, nên vào khoảng canh tư đêm ấy, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông…” (Mc 6,45-48).
Lần trước thì Ngài cùng ở trên thuyền với các ông, nhưng lần này thì Ngài để các ông “qua bờ bên kia” mà không có Ngài. Cả hai lần biển đều không êm ả: lần trước thì sóng gió nổi lên dữ dội, lần sau thì “vất vả chèo chống vì gió ngược”. Như thế, mỗi lần “qua bờ bên kia” là phải gặp khó khăn; mỗi lần ra xa, ra sâu là phải  vất vả đối phó với nhiều rủi ro, nguy hiểm; mỗi lần ra khỏi bờ là nơi quen thuộc, an toàn, người môn đệ phải đi vào gian truân, thử thách.
Biết thế, nhưng Đức Giêsu vẫn muốn và “bắt” các môn đệ Ngài phải ra đi, phải ra xa, ra sâu, “qua bờ bên kia”, sang chỗ mới, đến nơi xa lạ, mà không cho các ông ở lì một chỗ, cắm dùi lâu, mọc rễ sâu ở một nơi quen biết, một chỗ an toàn, thuận lợi. Bằng chứng là Tin Mừng đã ghi rõ: “Lập tức, Đức Giêsu bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia” (Mc 6,45).
Điều này nói lên đòi hỏi của truyền giáo là phải đi ra khỏi nơi an toàn như pháo đài mình đã xây dựng, củng cố để được an thân, an toàn tính mạng, an hưởng cuộc sống. Trái lại, không “qua bờ bên kia”, không lập tức xuống thuyền ra khơi, cả khi trời đã về chiều, và gió ngược phải vất vả chèo chống, người theo Đức Giêsu không thể trở thành môn đệ đích thực của Ngài, vì đã là môn đệ  thì phải can đảm “qua bờ bên kia”, dù sóng gió đang đợi chờ, bão táp đang rình rập đe dọa.
Mức độ quyết liệt của Đức Giêsu khi “bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia” cũng nói lên đòi hỏi phải “mở ra, đến với, lao mình vào”, nhất là tinh thần từ bỏ tất cả, kể cả những bó buộc đôi khi được coi là cần thiết như cơ chế, bởi khi bị trói buộc qúa chặt vào cơ chế, cơ cấu, người môn đệ sẽ không đủ liều lĩnh của “hồn tông đồ” để có thể xả thân ra khơi tung lưới, mà không ngậm ngùi tiếc nuối, so đo, phân bì, ngần ngại, bởi trong mọi tình huống, phục vụ cơ cấu, xây dựng pháo đài vẫn là chỗ đứng an toàn, chỗ ở an thân, chỗ dựa an ổn mà phần đông vẫn mong đợi, tìm kiếm.  
Tuy thế, Đức Giêsu đã không “vắng mặt” trên hành trình “qua bờ bên kia” của các môn đệ được Ngài sai đi. Lần đầu Ngài có mặt và ngủ. Lần sau đích thân Ngài “đi trên mặt biển đến với các ông”. Các ông vì tưởng Ngài là ma nên hoảng hốt. Sau khi trấn an các ông : “Chính Thầy đây, đừng sợ! Người lên thuyền với các ông và gió liền lặng” (Mc 6,50-51).
Vâng, hành trình “qua bờ bên kia” dù là đường sông, đường biển, đường bộ hay đường hàng không cũng đều là đường vất vả, chông gai, nhiều cam go, thử thách mà nhà truyền giáo luôn biết trước, vì được Đức Giêsu cảnh báo. Nhiều thử thách vì đến một nơi xa lạ; nhiều cam go, vì gặp những con người mới mà không hề biết phản ứng của họ ra sao; nhiều chông gai vì sứ mệnh không dễ dàng; nhiều vất vả vì những giới hạn của chính bản thân.
Nhưng với Đức Giêsu, Đấng sai đi, nhà truyền giáo sẽ không run sợ, dù có lúc hốt hoảng, hoang mang; sẽ không thoái lui, bỏ cuộc, dù đôi khi chán nản, thất vọng; sẽ không nao núng, gục ngã, vì biết “Thầy sẽ thức dậy và ngăm đe gió và truyền cho biển: Im đi! Câm đi!” (Mc 4,39), cũng như Thầy sẽ đi trên biển đến gặp, lên thuyền và gió im hơi lặng tiếng (x. Mc 6,48.51).  
Tóm lại, nhà truyền giáo không thể nuôi chủ trương xây dựng một Giáo Hội phòng thủ, vì Tin Mừng không là sở hữu để “thủ riêng”, kho tàng cất giấu, nhưng là hạt giống phải được hào sảng gieo vãi khắp nơi, Nước Trời không là sản nghiệp của một nhóm, một đoàn thể, nhưng là Hạnh Phúc Thiên Chúa ban cho hết mọi người, và Đức Giêsu không là “của riêng” ai, nhưng là Đấng Cứu Độ của toàn thể nhân loại.
Và chỉ một tinh thần “mở tung mọi cánh cửa ra bên ngoài cho thế giới”, thái độ “không sợ hãi đến với mọi người, nếp sống đạo “không phòng thủ đức tin như củng cố một pháo đài chiến đấu”, nhà truyền giáo mới thực sự truyền giáo, vì chỉ như thế, nhà truyền giáo mới dám “xuống thuyền qua bờ bên kia, để Tin Mừng đến được với muôn dân, và Đức Giêsu trở nên “Tấm Bánh được bẻ ra” cho mọi người “được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
Jorathe Nắng Tím

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét