THỨ BẢY TUẦN THÁNH
Trên
thế gian này làm gì có “đường không biên giới”, làm gì có
con đường bao phủ toàn cõi địa cầu, có mặt trong toàn thể thời gian, đến được hết
mọi con người, bởi khi nói về đường, người ta nghĩ ngay đến đường ở đâu, đường
dài ngắn bao nhiêu, phát xuất từ chỗ nào và dẫn đến chốn nào. Ấy là chưa nói đến:
đường dành riêng cho thú vật, cho người đi bộ, cho xe đạp, xe máy, hay cho xe
hơi, chưa kể những con đường khác như đường sông, đường biển, đường hàng không…
Tắt một lời, đã là đường, ắt phải được giới hạn, định vị bằng một đơn vị đo lường;
đã là đường thì không thể thiếu ranh giới, biên cương. Vì thế, khi nói đến “con
đường không biên giới”, người ta khó có thể quan niệm đó là con đường của con
người, mà thường nghĩ là con đường viễn tưởng huyền hoặc, con đường mơ ước vu
vơ.
Nhưng
Đức Giêsu đã mở ra con đường không biên giới. Ngài đã mở ra một cách thiết thực
bằng con đường Thánh Giá đổ máu và mồ hôi, bị xỉ nhục và vu khống, bị đội mão
gai và hnàh hạ, bi lột trần truồng và đóng đinh, bị đâm thủng cạnh sườn, và bị
chôn trong mồ như mọi người.
Ngài
đã mở ra con đường không biên giới một cách sống động bằng chính con người của
Ngài: con người trăm phần trăm, vì Ngài đã nhập thể và làm người như
chúng ta: trăm phần trăm vui mừng và hy vọng, trăm phần trăm sầu buồn và
lo lắng, trăm phần trăm nhục nhằn và tang thương, trăm phần trăm kiếp người phải
đau khổ và phải chết, trăm phần trăm trong thân xác biết đau khi bị đánh đòn,
đóng đinh, và xông mùi hôi thối của tử thi trong mồ.
Ngài
đã mở ra con đường không biên giới một cách lâu dài và tiệm tiến: khởi đi
từ bước thứ nhất ở buổi Tạo Dựng, khi con người được dựng nên với hình ảnh
Thiên Chúa và sống hạnh phúc trong ân nghiã Cha - Con với Ngài ( bài đọc 1);
rồi Ápraham đuợc gọi lên đường đến nơi Thiên Chúa chỉ cho ông, vì ông được chọn
làm tổ phụ một dân riêng “đông như sao trên trời, nhiều như cát dưới biển” (bài
đọc 2); tiếp đến là dân riêng được giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập và
vượt qua biển đỏ mà bàn chân họ vẫn ráo khô (bài đọc 3); nhưng rồi
dân riêng ấy quên lời thề đã phản bội và bỏ Thiên Chúa, nhưng dù thế nào đi nữa,
Ngài vẫn thương và dắt đưa họ về (bài đọc 4); và mãi mãi Thiên
Chúa là nguồn nước làm đã khát cơn khát của dân Ngài (bài đọc 5), cũng
như muôn đời Thiên Chúa bảo đảm ơn bình an cho những ai đi trên đường lối của
Ngài (bài đọc 6); sau cùng chính Thiên Chúa sẽ đoàn tụ con dân
Ngài lưu lạc khắp muôn phương, và đưa tất cả về Đất của Ngài đã chọn cho dân
Ngài (bài đọc 7). Và quả thực, Thiên Chúa đã chuẩn bị “Con đường không
biên giới” của Ngài bằng một qúa trình rất lâu dài với Dân riêng.
Nhưng con đường ấy Thiên Chúa không thực hiện một
mình. Trái lại, Ngài muốn cùng con người thực hiện, để con đường không biên giới
ấy trở thành con đường của Thiên Chúa và của con người.
Con
đường của Thiên Chúa và của con người, khi Ngôi Lời nhập thể để làm người như
con người, và sống, chết với con người, để con người cũng được chết và sống lại,
sống mãi với Thiên Chúa. Chỉ với khả năng sống chết cho nhau, thuộc về nhau trọn
vẹn, con người và Thiên Chúa mới có thể cùng thực hiện Con Đường cứu độ không
biên giới, mà Đức Giêsu mong đợi ấy.
Qủa
thực, khi nói đến “sống, chết với nhau”, người ta hiểu: chỉ có tình yêu mới
có thể thúc đẩy hai người chấp nhận sống chết với nhau đến cùng. Khi sẵn sàng sống
như con người, và chết cho con người, Đức Giêsu biểu lộ một tình yêu tuyệt đối,
khi hiến mạng sống mình cho con người mà Ngài yêu, để Thiên Chúa và con người
thuộc về nhau, nên một với nhau, tháp nhập trong nhau, nhất là để con người được
sống lại với Ngài để cùng Ngài thực hiện con đường không biên giới, như thánh
Phaolô viết cho giáo đoàn Rôma :
“Anh
em không biết rằng: khi chúng ta đuợc dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về
Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao ? Vì
được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta cũng được mai táng với Người. Bởi
thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của
Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới. Thật vậy, vì chúng ta
đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ
nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại” (Rm 6, 3-5).
Được sống lại như Đức Giêsu đã sống lại, vì chúng ta
đã chết với Ngài ở cuối đường tử nạn, nhưng cuối đường tử nạn không là “cùng đường, đường cùng”, cũng chưa là đích tới. Trái
lại, cuối đường tử nạn là Con Đường mới được mở ra: con đường không biên
giới của Đức Giêsu Phục Sinh, con đường Ngài cùng các môn đệ ra đi từ Galilê,
nơi Ngài hẹn gặp các ông sau khi sống lại như trình thuật của thánh
Mátthêu: “Sau ngày Sabát, khi ngày Thứ Nhất trong tuần vừa ló rạng, bà
Maria Mácđala, và một bà khác cũng tên là Maria, đi viếng mộ” (Mt 28,1). Các bà
gặp một thiên thần, và thiên thần lên tiếng bảo các bà: “Tôi biết các bà
tìm Đức Giêsu, Đấng bị đóng đinh. Người không có ở đây, vì Người đã trỗi dậy,
như lời Người đã nói. Các bà đến mà xem chỗ Người nằm, rồi mau về nói với môn đệ
Người như thế này : Người đã trỗi dậy từ cõi chết, và Người đi Galilê trước
các ông. Ở đó các ông sẽ được thấy Người” (Mt 28,5-7).
Sứ điệp Phục
Sinh của thiên thần rất rõ:
“Người
không có ở đây”, vì mộ phần không là chỗ của người sống, nhưng con đường mới
là không gian cho người sống sinh hoạt, vì sống là lên đường, sống là bước đi,
sống là thực hiện hành trình cuộc đời. “Người cũng không có ở đây”, vì ở đây chỉ
là nơi dừng chân, chứ không là đích tới, bởi một con đường không biên giới vừa
được mở ra từ biến cố sống lại.
Nhưng
“Người
đi Galilê”. Galilê là đất của mọi dân tộc ra vào; Galilê là
vùng “bỏ ngỏ” cho mọi sắc dân, chủng tộc đi lại; Galilê là miền quy tụ, gặp
gỡ của mọi nền văn hoá; Galilê là nơi Đức Giêsu chọn để khai trương con
đường cứu độ không biên giới của Ngài, con đường đến với muôn dân của mọi thời,
ở mọi nơi; Galilê là điểm hẹn của Đức Giêsu phục sinh với các môn đệ,
không phải hẹn để kể chuyện chết chóc, mai táng, nhưng hẹn để sai đi: “Thầy
đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn
dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dậy
bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây Thầy ở cùng anh em mọi
ngày cho đến tận thế” (Mt 28,18-20).
Như
thế, biến cố Phục Sinh của Đức Giêsu đã mở ra con đường không biên giới đến với
muôn dân của mọi thời, ở mọi nơi, bất phân chủng tộc, mầu da, giai cấp, trình độ,
văn hoá, chính kiến… Con đường không biên giới vì không dừng ở một hạn chế nào,
không bị ngăn cấm bởi một hàng rào nào, không bị kiểm tra bởi một trạm gác nào,
và không phân biệt, kỳ thị, loại trừ bất cứ ai.
Con
đường không biên giới khi bao trùm tất cả, toàn bộ, toàn phần thời gian và
không gian. Con đường không biên giới khi không một con người nào từ “khai sinh
lập địa” cho đến tận thế không có chỗ trên con đường này, và không được chúc
phúc, cứu độ, nhờ Lời Hứa “ở lại cho đến tận thế với các môn đệ” trên con đường
Truyền Giáo không biên giới đến với muôn
dân của Đức Giêsu (x. Mt 28,20).
Thực
vậy, mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giêsu, trong đó người tín hữu được “dìm
mình vào”, như kiểu nói của thánh Phaolô, sẽ chỉ có giá trị khi người tin theo
Đức Giêsu đi về Galilê, nơi Đức Giêsu hẹn gặp, để cùng Ngài thực hiện con đường
không biên giới “Đến Với Muôn Dân” loan báo Tin Mừng: Chúa đã chết và đã
sống lại ! Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất cho nhân loại được sống hạnh phúc
đời đời.
Đường
Thánh Giá, đường Khổ Nạn, đường Từ Bỏ, tất cả đều dẫn đến “Sáng sớm Phục Sinh”,
ở đó, Đức Giêsu sống lại ban Bình An phục sinh của Ngài cho chúng ta (x. Ga
20,19), để chúng ta cùng Ngài lên đường Truyền Giáo, con đường không biên giới
của Thiên Chúa và của con người. Chỉ trên con đường Truyền Giáo không biên giới
này, chúng ta mới sống trọn vẹn Ơn Gọi Kitô hữu của mình, khi được chết và sống
lại với Đức Giêsu.
Jorathe
Nắng Tím
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét