Suy
niệm Chúa Phục Sinh
Ngay sau khi sống lại, Đức Giêsu Phục Sinh đã hiện ra
nhiều lần với các môn đệ, và lần nào
Ngài cũng hiện ra với “các ông”, mà không hiện ra riêng tư, riêng rẽ, riêng lẻ
với “một ông” nào.
Những cuộc gặp gỡ giữa Thầy và anh em môn đệ, giữa Thầy
và Nhóm cũng là những hẹn hò giữa Đức Giêsu và Giáo Hội, một cộng đoàn hiệp nhất,
hiệp thông, một tập thể được tình yêu hiệp thông nối kết, làm cho tất cả nên một,
như lời cầu xin của chính Đấng sáng lập: “Lậy
Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, để
họ nên một trong chúng ta” (Ga 17,11).
Qủa thực, tất cả các môn đệ đều đã nghe Đức Giêsu dặn
bảo nhiều lần phải hiệp nhất, phải đoàn kết, tương trợ, phải “thương yêu nhau
như Thầy đã yêu thương anh em”. Vào những ngày cuối đời trước khi lên Giêrusalem
chịu chết, các ông còn được chứng kiến Đức Giêsu tha thiết cầu xin Chúa Cha cho
tất cả các ông “được nên một, như Cha ở
trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta” (Ga 17,21).
Tuy thế, phải chờ đến khi các ông chứng kiến Đức Giêsu
phục sinh hiện ra giữa các ông, với các
ông, các ông mới thấm thiá lời căn dặn phải hiệp nhất nên một của Thầy.
Thấm thiá đòi hỏi hiệp nhất, hiệp thông của Thầy không
là chọn lựa nhiệm ý, nhưng là chọn lựa thuộc yếu tính của đời tông đồ. Các ông
nhớ lại Đức Giêsu đã luôn sai các ông đi với nhau, mà không sai đi một mình; bắt
các ông cùng xuống thuyền, mà không để mỗi
người tự bươn trải, chèo chống qua bờ bên kia (x. Mt 14,22), và lần nào cũng thế,
Đức Giêsu đều có mặt với các ông, giữa
các ông.
Các ông thấm thiá giá trị của hiệp nhất, vì chỉ khi ở
với nhau, đi cùng nhau, các ông mới gặp được Đức Giêsu, Thiên Chúa, như hôm
nay, khi Ngài hiện đến ban Bình An phục sinh cho các ông (x. Ga 20,19), và như
hôm nao Ngài đã đi trên biển mà đến với các ông, đang khi thuyền các ông “bị sóng
đánh vì ngược gió” (Mt 14,24).
Thấm thiá hiệp nhất, hiệp thông với nhau là điều Đức
Giêsu mong đợi hơn cả ở người môn đệ, và các ông nhớ lại ưu tiên trên mọi ưu tiên
mà Đức Giêsu muốn các ông lựa chọn chính là “yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12), để tất
cả được “ở lại trong tình thương của Thầy”
(Ga 15,9), cũng là ở trong tình thương của nhau, như cành nho hiệp nhất với cây
nho để sinh nhiều hoa trái (x. Ga 15,1-6).
Sở dĩ các ông thấm thiá hiệp nhất là đòi hỏi tối quan
trọng, thuộc yếu tính của đời người môn đệ, vì các ông thấy Đức Giêsu phục sinh
chỉ hiện ra khi các ông ở với nhau, như đã ở với nhau trong nhà (x. Ga 20,19-29),
xuống thuyền với nhau ra biển đánh cá (x. Ga 21), đi với nhau trên đường từ Giêrusalem
về Emmau (x. Lc 24,1-31).
Từ những thấm thiá sau những lần Thầy hiện ra, và ký ức
về những lần được sai đi khi còn ở với các ông, các môn đệ đã xác tín:
1. Đức Giêsu
luôn có mặt nơi có tình yêu hiệp thông, hiệp nhất:
Từ kinh nghiệm những ngày sống với Đức Giêsu, các môn
đệ xác tín điều quan trọng nhất trong sứ vụ tông đồ, đó là ở với nhau, đi với
nhau với tình hiệp thông, hiệp nhất, bởi thành qủa của sứ vụ hệ tại ở đòi hỏi
hiệp thông, hiệp nhất này. Đàng khác, các ông dường như không thấy Đức Giêsu đặt
nặng thành công truyền giáo cho bằng sự hiệp nhất, hiệp thông giữa các ông, và
luôn luôn Ngài tạo cơ hội cho các ông đi với nhau, cùng ở với nhau, hợp tác với
nhau, nhất là tỏ cho các ông chân lý: bất cứ
khi nào các ông ở với nhau, hiệp thông, hiệp nhất với nhau, thì Ngài luôn
ở đó với họ.
Tin Mừng Matthêu kể: “Đức Giêsu bắt các môn đệ xuống
thuyền qua bờ bên kia trước trong lúc Người giải tán đám đông… Giải tán họ
xong, Người lên núi một mình cầu nguyện. Tối đến Người vẫn ở đó một mình. Còn
chiếc thuyền thì đã ra xa bờ đến cả mấy cây số, bị song đánh vì ngược gió. Vào
khoảng canh tư, Người đi trên mặt biển mà đến với họ” (Mt 14,22-25).
Đó là kinh nghiệm ở với nhau mà các môn đệ đã trải qua
“với nhau”. Qua kinh nghiệm này, các ông hiểu và xác tín: Đức Giêsu không bỏ các
ông khi các ông ở với nhau, đồng tâm nhất trí với nhau, nhất là trong thử thách,
gian khổ. Sự kiện Đức Giêsu đi trên mặt biển đến với các ông khi thuyền bị sóng
đánh vì ngược gió minh chứng “ở với nhau”
là đòi hỏi thứ nhất và quan trọng nhất mà Đức Giêsu muốn nơi các môn đệ Ngài.
2. Sứ vụ đi
loan báo Tin Mừng và lệnh truyền yêu thương, hiệp nhất với nhau nên một không
thể tách rời:
Đức Giêsu lập Giáo Hội vì muốn các môn đệ của Ngài ở với
nhau, muốn những người đi theo Ngài quy tụ với nhau quanh Ngài để làm thành một
gia đình, một cộng đoàn. Ngài không muốn người ta theo Ngài một cách riêng lẻ,
biệt lập, cá nhân, nhưng hiệp thông với nhau, hiệp nhất với nhau nên một trong
Ngài.
Vì thế làm môn đệ của Đức Giêsu, làm Kitô hữu thuộc về
Đức Giêsu, chúng ta không thể đứng một mình lẻ loi, cô độc; không thể lầm lũi
bước đi một mình, ở một mình, hoàn toàn tách biệt, “độc lập” với những môn đệ
khác, với tập thể những người cùng đi theo Chúa, với cộng đoàn Giáo Hội, vì ý
muốn của Đức Giêsu khi lập Giáo Hội chính là tinh thần Hiệp Thông, Hiệp Nhất giữa
những ai muốn đi theo Ngài.
Có những tôn giáo không đặt nặng tính cộng đồng và hiệp
thông, hiệp nhất, nhưng mỗi người tin như mình muốn, tin như mình cảm nghiệm và
đức tin ấy mang tính cá nhân, riêng tư, độc lập. Khác với những tôn giáo này,
Kitô giáo đòi hiệp thông, hiệp nhất giữa những người cùng một đức tin, vì đó là
ý muốn của Đức Giêsu, Đấng sáng lập: “Lậy Cha, xin cho chúng nên một như Cha với
con”.
Chính vì thế, không thể có truyền giáo của môn đệ đơn
độc, không thể có sứ vụ một mình ra đi, nhưng lệnh lên đường truyền giáo là lệnh
mang tính cộng đoàn, gồm cả nhóm với đòi hỏi phải hiệp thông, hiệp nhất “Anh em
hãy ra đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19).
Người được sai thi hành sứ vụ là “anh em” tức tập thể môn đệ, và đối tượng của sứ vụ là những con
người sẽ nhận phép rửa để cũng được trở thành môn đệ như người được sai đi. Nói
cách khác, tính cộng đồng hiệp thông giữa người rao giảng và người được rao giảng,
tính hiệp nhất giữa những người thuộc về Đức Giêsu, tức môn đệ Ngài là điểm
then chốt nổi bật trong giáo huấn của Đức Giêsu.
Đó cũng là lý do Đức Giêsu đã qủa quyết với các môn đệ
của Ngài: “Anh em hãy yêu thương nhau,
như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy
ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,34-35).
Như thế, nếu không hiệp thông, hiệp nhất với nhau
trong tình yêu thương, người môn đệ sẽ chẳng làm được gì trên đường truyền giáo,
vì ngoài dấu chỉ yêu thương nhau, người đời không còn một dấu chỉ nào khác để
nhận ra nhà truyền giáo là môn đệ của Đức Giêsu, là người loan báo Tin Mừng của
Đức Giêsu, giới thiệu Đức Giêsu Thiên Chúa làm người, Đấng Cứu Độ duy nhất của
nhân loại. Không yêu thương nhau, toàn bộ công trình truyển giáo sẽ trở nên vô ích,
không sinh hoa trái thiêng liêng nào, cũng không đem lại lợi ích cho ai, kể cả
nhà truyền giáo. Không đủ khả năng và thiện chí để cùng nhau trở nên dấu chỉ là môn đệ đích thực
của Đức Giêsu, nhà truyền giáo đừng mơ “đón về những con chiên mới, và đưa về
những con chiên lạc”, bởi cả chiên lạc và chiên mới đều không nhận ra tiếng của
mục tử nhân lành, vì thiếu tình yêu thương, tình hiệp thông, hiệp nhất giữa những
người được sai đi. Không có lòng yêu thương nhau giữa những người được thánh hiến
cho sứ vụ của Giáo Hội, Giáo Hội không hy vọng nhận về những hoa trái thiêng liêng
được gặt hái, vì cành nho không liên kết với nhau và gắn chặt vào cây nho thì
chẳng sinh hoa trái, mà chỉ đáng bị quăng ra ngoài, cho vào lửa đốt đi (x. Ga
15,5-6). Không hiệp nhất với nhau nên một, người môn đệ trước sau cũng sẽ như
Giuđa lủi thủi một mình với những toan tính hơn thiệt cho bản thân, rồi tự bỏ
Thầy, rời xa anh em đi vào hủy diệt.
Do đó, sẽ không có truyền giáo đích thực, truyền giáo
như ý Chúa muốn, truyền giáo đem lại ơn cứu rỗi cho các linh hồn, nếu người môn
đệ, nhà truyền giáo chủ trương “độc lập”: ở riêng, ăn riêng, làm riêng, chơi riêng
mà bất chấp cộng đoàn, bất chấp anh em, bất chấp tinh thần hiệp thông, hợp tác,
và coi thường đòi hỏi hiệp nhất nên một của Đức Giêsu, bởi khi tách khỏi Giáo Hội,
tự cô lập mình khỏi cộng đoàn, tập thể, đội nhóm, người môn đệ không gặp được Đức
Giêsu, như Ngài đã hiện ra và gặp gỡ “các anh em của Ngài” khi họ ở với nhau, sau khi Ngài sống lại.
Tóm lại, những lần hiện ra sau phục sinh của Đức Giêsu
với các môn đệ khi họ ở với nhau, đi với nhau, cũng như sự hiện diện của Ngài
giữa các ông khi Ngài còn ở với các ông là bằng chứng về yếu tính hiệp thông,
hiệp nhất của Giáo Hội, tập thể những người cùng đi theo Đức Giêsu. Chưa kể lệnh
truyền và dấu chỉ duy nhất để thiên hạ nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người
chính là “anh em có lòng yêu thương nhau”.
Bởi có yêu thương nhau, lời chứng về Thiên Chúa là Tình
Yêu Cứu Độ của người môn đệ mới thuyết phục người nghe Tin Mừng. Bởi có yêu thương
nhau, nhà truyền giáo mới là nhân chứng của Tình Yêu và ơn Bình An của Đức Giêsu
phục sinh cho nhân loại bất an, bất ổn vì hận thù, bạo lực. Bởi có yêu thương
nhau, những người thuộc về Đức Giêsu mới là những người đáng tin khi kể về những
kỳ công của Thiên Chúa đã làm cho con người vì yêu thương con người. Bởi có yêu
thương nhau, những người được thánh hiến để phục vụ mới là những gương sáng bác
ái, nếu không, sẽ “phản chứng và phá hoại”.
Cũng chính vì “yêu
thương nhau” là dấu chỉ để mọi người nhận biết Thiên Chúa, mà người môn đệ
Đức Giêsu phải đặt ưu tiên cho hiệp thông, hiệp nhất giữa nhau, và luôn ý thức:
công việc truyền giáo chỉ mang lại hoa trái thiêng liêng, một khi tình hiệp thông,
hiệp nhất giữa nhà truyền giáo được củng cố vững chắc, bảo đảm.
Và điều quan trọng sau cùng người môn đệ cần lưu ý, đó
là ở với nhau, làm việc với nhau, hiệp thông, hiệp nhất với nhau là ý muốn đời
đời của Thiên Chúa, do Tình Yêu hiệp nhất của Chúa Ba Ngôi. Cũng vì thế, Thiên
Chúa chỉ có mặt nơi nào có tình yêu thương, và phần thưởng lớn nhất, trước nhất
mà người môn đệ nhận được khi hiệp thông, hiệp nhất với nhau chính là được ở trong Chúa, có Chúa đồng hành, có
Chúa phù hộ, nâng đỡ. Phần thưởng này mới thực là điều người môn đệ phải
khao khát đi tìm trước những thành qủa truyền giáo bên ngoài mà nhiều khi chỉ là
những thành qủa của thế gian, do tính toán, sắp xếp của đầu óc kinh doanh, bàn
tay thủ lợi của người đời, mà nhiều nhà truyền giáo đã ngây thơ mắc bẫy.
Xin Đức Giêsu phục sinh, Đấng luôn có mặt giữa những
ai “tâm đầu ý hiệp” khi phụng sự Chúa, phục vụ anh em ban ơn Bình An Phục Sinh
của Ngài cho tất cả chúng ta là môn đệ của
Ngài. Alléluia!
Jorathe Nắng Tím
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét