Pages - Menu

Thứ Tư, 22 tháng 1, 2020

TÔN VINH MẸ LA VANG, NỮ VƯƠNG CÁC GIÁO HỮU VIỆT NAM

Suy niệm 2 : ĐỨC MARIA TIN VÀO LỜI HỨA CỦA THIÊN CHÚA
Hành động tin luôn hướng đến tương lai, vì tin là hy vọng ở những gì chưa có, chưa thể hiện trong hiện tại. Bởi thế, bất cứ niềm tin nào cũng cậy dựa vào Lời Hứa của một người, một Đấng mà mình yêu mến, tín nhiệm.
Chính vì đức tin đòi gắn bó vào Lời Hứa, vào một điều mới chỉ được hứa sẽ có, được tiên báo sẽ thực hiện, nhưng trong thực tế thì chưa có, thực sự thì chưa xẩy ra, vì chưa có gì thành tựu, thành sự, thành hình, mà tin không dễ, đức tin không luôn mang mầu hồng, và niềm tin không an nhàn, thoải mái. Cũng chính vì đức tin đòi bám chặt vào Lời Thiên Chúa hứa, mà nhiều người không tin, hay tin mà vẫn nghi ngờ, dè dặt, tin mà vẫn thập thò chân trong chân ngoài, tính toán trước sau, so đo hơn thiệt.
Và không chỉ đức tin siêu nhiên đòi gắn bó với Lời Hứa, ngay trong đời sống hằng ngày, đòi hỏi này cũng không thể thiếu, nếu để được gọi là niềm tin. Nhìn hai người yêu nhau, thành hôn với nhau, họ đã chẳng dựa trên lời hứa chung thủy của nhau đó sao ? Ở thời điểm hiện tại, và khởi điểm của hành trình hôn nhân, họ có biết ngày mai ra sao, tương lai thế nào đâu, nhưng vì tin vào lời hứa trung thành, lời hứa yêu thương và tín nhiệm nhau, họ đã dấn thân để nên vợ nên chồng cho đến hết cuộc đời, và bao lâu còn tin vào lời hứa của nhau, bấy lâu họ còn hạnh phúc, nhưng nếu không may đến một lúc không còn tin vào lời hứa nữa, họ sẽ không thể tiếp tục đồng hành với nhau trên đường tình. Đây chính là nguyên nhân của hầu hết các gia đình đổ vỡ, và lý do làm đứt gánh giữa đường tình.
Như thế, sẽ không có niềm tin, nếu không có lời hứa, cũng như không có đức tin, nếu không gắn chặt đời mình vào Lời Hứa của Thiên Chúa.
Đức Maria, Mẹ chúng ta là người có đức tin vững mạnh vào Lời Thiên Chúa hứa, và vì tin, Mẹ được tuyên dương là người đầy ơn phúc, như bà chị họ Êlisabét đã lên tiếng khen Mẹ : “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1, 45).    
Nhưng đức tin của Đức Maria không là “đức tin” bồng bột của cảm xúc, “đức tin” hời hợt của cảm tính, như chỉ tin khi thành đạt, thịnh vượng, và hết tin khi sa cơ, thất thế, hoặc tin khi “ăn nên làm ra”, nhưng không tin khi gian nan, thử thách. Trái lại, đức tin ở Đức Maria là đức tin của người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, nghiã là không có gì thuộc quyền sở hữu của Mẹ từ tư tưởng, lời nói, việc làm ; không có gì là của riêng Mẹ từ quá khứ, hiện tại, tương lai ; không còn gì ở trong quyền quản lý của mẹ từ vinh dự, tài năng, nhân đức đến gian truân, khốn khó, đau khổ, sự sống và sự chết.
Vì thế tất cả cuộc đời Mẹ là tin ở Lời Thiên Chúa hứa, tất cả con người Mẹ là lời “Xin Vâng, đây là nữ tỳ của Chúa”, tất cả sinh hoạt cuộc sống Mẹ là “xin Chúa cứ làm cho tôi như sứ thần nói” (Lc 1, 38), để không có gì lọt ra khỏi Thánh Ý Chúa, không có gì ra ngoài vùng phủ sóng của Lời Hứa, không có gì vượt khỏi chương trình cứu độ của Đức Giêsu, Con Mẹ. Nhờ thế mà đức tin của Mẹ trọn vẹn và tuyệt đối.
Đức Tin của Đức Maria còn là đức tin được đổ móng trên truyền thống đức tin của cha ông và của dân tộc Israel như Mẹ đã tuyên xưng trong kinh Tán Tụng : “Chúa độ trì Israel, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời” (Lc 1,54-55).
Khi tuyên xưng điều này, Mẹ  khẳng định : đức tin của Mẹ không trơ trọi một mình, không biệt lập một góc, không chơ vơ, cô độc, nhưng là đức tin của cả Dân Chúa, đức tin của toàn thể gia đình những người tin vào Lời Hứa, đức tin của truyền thống và lịch sử lâu dài nơi cộng đoàn những ai tôn thờ Thiên Chúa. Đức tin ấy vững chắc vì được không ngừng củng cố, nâng đỡ bởi cộng đoàn đức tin, được lớn lên trong tình yêu của cộng đoàn những người tin, được ăn rễ sâu nhờ được cộng đoàn đức tin bảo vệ, gìn giữ. 
Tin Mừng Luca đã ghi lại rất chi tiết đức tin luôn gắn bó với cộng đoàn Dân Chúa của Đức Mẹ, như “khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Môsê, bà Maria và ông Giuse đem con lên Giêrusalem, để tiến dâng cho Chúa” (Lc 2,22-23), cũng như “hằng năm, cha mẹ Đức Giêsu trẩy hội đền Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua. Khi Người được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, như người ta thường làm trong ngày lễ” (Lc 2,41-42).
Sau cùng đức tin vào Lời Hứa của Đức Mẹ còn được nuôi dưỡng bằng đời sống kết hợp mật thiết với Đức Giêsu, để hiểu được ý muốn cứu độ nhân loại của Thiên Chúa.
Thánh sử Luca đã kể lại cách tài tình nỗi lo lắng của Đức Maria và thánh Giuse khi Đức Giêsu bị lạc mất ba ngày ở Giêrusalem qua lời đối đáp giữa Đức Mẹ và Đức Giêsu : “Khi thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dậy, vừa nghe họ vừa đặt câu hỏi…, hai ông bà sửng sốt”, và mẹ Người nói với Người : “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy ? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con !” Người đáp : “Sao cha mẹ lại tìm con ? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao ?” (Lc 2, 46.48-49). Tuy không hiểu lời Đức Giêu, con mình vừa nói, nhưng “mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng (Lc 2, 51).
Ghi nhớ tất cả trong lòng” là gìn giữ những Lời của Đức Giêsu, con mình nói ; là suy niệm trong thinh lặng của tâm hồn, cầu nguyện trong tĩnh lặng của trái tim với Lời Hứa của Thiên Chúa để khám phá ý định cứu độ của Ngài. Nhờ thế, Đức Maria bén nhậy và tinh tế nhận ra điều Thiên Chúa muốn, việc Thiên Chúa muốn thực hiện, nhất là nắm bắt được giờ cứu độ của Thiên Chúa, như ở Cana, qua phép lạ cho nước hoá thành rượu ngon, nhờ sự can thiệp của Mẹ.
Ở tiệc cưới Cana, Đức Giêsu lúc đầu xem ra không muốn chấp thuận lời đề nghị của Đức Mẹ khi trả lời : “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi ? Giờ tôi chưa đến” (Ga 2,4), nhưng tâm hồn cầu nguyện tràn đầy đức tin của Đức Maria rất bén nhậy với ý muốn thương xót và cứu độ của Thiên Chúa đã thúc bách Mẹ không ngần ngại nói với gia nhân : “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5). Mẹ đã đi trước và làm gương cho người đàn bà ngoại đạo xứ Canaan kiên nhẫn nài xin Đức Giêsu chữa con gái bà “bị qủy ám khổ sở lắm” (Mt 15,22), nhưng “Người không nói một lời” (Mt 2,23). Khi các môn đệ lại gần xin với Người rằng : “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo chúng ta mà kêu mãi !”. Người đáp : “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi”. Bà ấy liền đến bái lậy mà thưa Người rằng : “Lậy Ngài, xin cứu giúp tôi !” Người đáp : “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Bà ấy nói : “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống. Bấy giờ Đức Giêsu đáp : “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy». Từ giờ đó, con gái bà được khỏi”  (Mt 15,23-28).   
Và chúng ta có thể quả quyết : đứng trước niềm tin vững vàng và lời cầu khẩn tha thiết của Đức Maria, Đức Giêsu thấy đã đến giờ “bày tỏ vinh quang của Người”, để “các môn đệ tin vào Người” (Ga 2, 11), và sáu chum nước lã đã biến thành sáu chum rượu ngon (x. Ga 2,6-10).
Như thế, tin Thiên Chúa chính là tin vào Lời Hứa của Ngài : Lời Chúa hứa yêu thương và cứu độ, Lời Chúa hứa “từ đời nọ đến đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1,50), Lời Hứa “ơn cứu độ đã dành sẵn cho muôn dân : Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel, Dân Ngài” (Lc 2,30-32), Lời Hứa “sẽ được gấp bội và được sự sống vĩnh cửu làm gia nghiệp” cho những ai bỏ mọi sự mà đi theo Chúa (Mt 19,29).
Bên cạnh là Lời Hứa Nước Trời cho những ai nghèo khó, hiền lành ; người đau khổ, sầu buồn vì yêu thương sẽ được Thiên Chúa ủi an ; ai khát khao trở nên người công chính sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng, toại nguyện ; kẻ có lòng xót thương anh em sẽ được Thiên Chúa thương xót, thứ tha ; người có tâm hồn trong sạch sẽ được chiêm ngưỡng Thiên Chúa ; người  xây dựng hoà bình sẽ được gọi là con Thiên Chúa ; còn ai bị vu khống, xỉ vả vì Nước Trời, bị bách hại vì sống công chính sẽ được Nước Thiên Chúa làm gia nghiệp và phần thưởng lớn lao trên trời (x. Mt 5,3-12), và ở ngày chung thẩm, khi Thiên Chúa ngự đến, Ngài sẽ nhận vào Vương Quốc của Ngài những ai yêu mến, và phục vụ anh em bé nhỏ, đau bệnh, yếu đuối, nghèo hèn, thất học, di cư, bị bạc đãi, bỏ rơi, đàn áp trong cuộc đời, như Lời Chúa đã hứa (x. Mt 25, 31-46).
Tôn vinh Mẹ La Vang, Nữ Vương phù hộ các giáo hữu Việt Nam, chúng con nài xin Mẹ giúp chúng con dám tin vào Lời Hứa của Thiên Chúa, nhất là ở thời đại tiêu thụ, thực dụng mà cái gì cũng phải thấy ngay, có ngay, “ăn tươi nuốt sống” liền, và với Mẹ, chúng con học “thuộc về Chúa” mỗi ngày hơn, gắn bó hơn với Giáo Hội, cụ thể là giáo xứ, giáo phận là Gia Đình của những người tin, và noi gương Mẹ sống đời nội tâm cầu nguyện, để vững tâm tin vào Lời Chúa hứa.  
Jorathe Nắng Tím

TÔN VINH MẸ LA VANG, NỮ VƯƠNG CÁC GIÁO HỮU VIỆT NAM

    Suy niệm 1 : ĐỨC  MARIA, NỮ TỲ CỦA THIÊN CHÚA
Đức Maria được Tin Mừng nói đến từ biến cố truyền tin. Đây là biến cố quan trọng mở đầu chương trình nhập thể, nhập thế của Đức Giêsu. Tuy là biến cố khởi đầu rất quan trọng, nhưng biến cố ấy đã xẩy ra trong một tình huống rất đơn sơ, mà thánh sử Luca đã kể lại :
Bà Êlisabét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gabrien đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, dòng dõi vua Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria. Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói : Mừng vui lên, hỡi đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà. Nghe lời ấy, bà rất bối rối và tự hỏi lời chào như vậy có nghiã gì.
Sứ thần liền nói : “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây, bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao...
Bà Maria thưa với sứ thần : “việc ấy xảy ra thế nào được, vì tôi không biết đến việc vợ chồng !”. Sứ thần đáp : “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kià bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi mà cũng đang cưu mang một người con trai : bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”. Bấy giờ bà Maria nói : “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Rồi sứ thần từ biệt ra đi (Lc 1, 26-38).     
Qủa thực, so với cuộc truyền tin cho Dacaria, chồng của bà Êlisabét và cha của Gioan Tẩy Giả sáu tháng trước đó, thì quang cảnh truyền tin cho Đức Maria thật không có gì hoành tráng. Cũng thánh sử Luca cho chúng ta biết về cuộc truyền tin rất trang trọng, hoành tráng này :
Dacaria thuộc hàng tư tế. Trong cuộc bắt thăm thường lệ của hàng tư tế, ông đã trúng thăm được vào dâng hương trong Đền Thờ của Đức Chúa. Trong giờ dâng hương đó, toàn thể dân chúng cầu nguyện ở ngoài (Lc 1,9-10). Bỗng một sứ thần của Chúa hiện ra với ông, đứng bên phải hương án. Thấy vậy, ông Dacaria bối rối và sợ hãi. Nhưng sứ thần bảo ông : Này ông Dacaria, đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin : bà Êlisabét, vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gioan. Ông sẽ được vui mừng hớn hở, và nhiều người cũng sẽ được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời… Ông Dacaria thưa với sứ thần : Dựa vào đâu mà tôi biết được sự ấy ? Vì tôi đã già, và nhà tôi cũng đã lớn tuổi. Sứ thần đáp : Tôi là Gabrien, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, tôi được sai đến nói với ông và loan báo tin mừng ấy cho ông. Và này đây ông sẽ bị câm, không nói được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ông đã không tin lời tôi, là những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi….
Khi thời gian phục vụ ở Đền Thờ đã mãn, ông trở về nhà. Ít lâu sau, bà Êlisabét vợ ông có thai, bà ẩn mình năm tháng. Bà tự nhủ : Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi Người thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời (Lc 1, 9-25).  
Qủa thực, hai cuộc truyền tin, tuy cùng được báo tin bởi tổng lãnh thiên thần Gabrien, sứ thần của Thiên Chúa, nhưng cuộc truyền tin cho Dacaria đã được thực hiện trong Đền Thờ Giêrusalem nguy nga, tráng lệ, ở nơi cực thánh huy hoàng, giữa buổi lễ dâng hương rất trang nghiêm, quan trọng, và có sự tham dự cầu nguyện của hàng tư tế và đông đảo dân chúng. Ông Dacaria lại thuộc hàng tư tế được trọng vọng, có tên tuổi, và hôm ấy là ngày vô cùng trọng đại và vinh dự cho ông, vì được dâng hương cho Thiên Chúa ở nơi cực thánh hầu như chỉ xẩy ra một lần trong đời cho một tư tế.
Khác với Dacaria, Đức Maria chỉ là một cô thôn nữ bình dị, sống với gia đình nghèo khó, ở một  ngôi làng bé nhỏ, vô danh tiểu tốt ; cuộc truyền tin lại xẩy ra tại nhà, không người chứng kiến, không báo trước, không chuẩn bị, nên không hương trầm nghi ngút, cũng chẳng rực rỡ nến hoa ; buổi truyền tin lại rất âm thầm, đơn giản, chỉ có hai người : sứ thần Gabrien và Đức Maria.
Trong hai cuộc truyền tin, chúng ta nhận thấy : Đức Maria không chờ đợi bất cứ sự gì cho riêng mình, trong khi Dacaria mong đợi và khẩn khoản nài xin Thiên Chúa ban cho ông một đứa con ; Đức Maria được thiên sứ đến tận nhà, còn Dacaria phải vào tận nơi cực thánh của Đền Thờ mới gặp được thiên sứ.
Chúng ta còn thấy sự hồn nhiên, phó thác của một đức tin vững mạnh nơi Đức Maria khi ngài hỏi thiên sứ : Việc ấy xẩy ra thế nào được, vì tôi không biết đến việc vợ chồng ! (Lc 1, 34), trong khi Dacaria do dự, nghi ngờ khi chất vấn thiên sứ : Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy ? Vì tôi đã già, và nhà tôi cũng đã lớn tuổi (Lc 1,18).
Sự khác biệt giữa Đức Maria và tư tế Dacaria là mức độ của niềm tin vào Lời Thiên Chúa, và phó thác ở Thánh Ý Ngài. Đức Maria đã tin lời truyền tin và xác quyết của thiên sứ : Không có gì là không có thể đối với Thiên Chúa, còn Dacaria đã không tin vì mình già, vợ mình lớn tuổi mà còn có thể có con như lời sứ thần vừa loan báo. Vì thế, Dacaria đã bị câm cho đến ngày Gioan chào đời, như một dấu chỉ của sự cứng lòng  không tin lời sứ thần sẽ ứng nghiệm đúng thời đúng buổi (Lc 1,20). Và mọi việc đã xẩy ra đúng như sứ thần đã nói trước : Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì và tính lấy tên Dacaria mà đặt cho em. Nhưng bà mẹ lên tiếng nói : Không, phải đặt tên cháu là Gioan. Họ bảo bà : Trong họ hàng của bà, chẳng ai có tên như vậy cả. Rồi họ làm hiệu hỏi người cha, xem ông muốn đặt tên cho em bé là gì. Ông xin một tấm bảng nhỏ và viết : Tên cháu là Gioan. Ai nấy đều bỡ ngỡ. Ngay lúc ấy miệng lưỡi ông lại mở ra, ông nói được, và chúc tụng Thiên Chúa (Lc 1, 59-64).  
Tất cả những khác biệt giữa hai cuộc truyền tin đã đưa đến một kết luận cuối cùng rất quan trọng là điều kiện để mầu nhiệm Thiên Chúa đến với con người được thực hiện, đó là câu trả lời của Đức Maria : Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói (Lc 1, 38).
Câu trả lời : Vâng, tôi là nữ tỳ của Chúa đã quyết định tương quan của Đức Maria với Thiên Chúa. Đó là tương quan người tôi tớ khiêm tốn chỉ biết vâng lời chủ, và suốt đời Mẹ đã hoàn toàn vâng lời Thiên Chúa, để nhiệm cuộc cứu độ nhân loại của Thiên Chúa được thực hiện.
Lời xin vâng của nữ tỳ ấy đã xác định lẽ sống và đường sống của Đức Maria. Bằng chứng là ngay từ buổi truyền tin, Mẹ đã chỉ phục vụ Thiên Chúa và làm những gì Thiên Chúa muốn Mẹ làm, dù đời Mẹ là một đường Thánh Giá như lời tiên tri của cụ già Simêon : Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà (Lc 2,35).
Cũng với lời Xin Vâng của tôi tớ Thiên Chúa ấy, Đức Maria đã đến với mọi người, như đến với chị họ Êlisabét một cách khiêm tốn, hồn nhiên và với tinh thần phục vụ của người tôi tớ, mặc dù không được bà chị họ Êlisabét báo tin vui sắp có con, cũng như không được gia đình này mời. Vì thế, cuộc thăm viếng đã chỉ có thể được thực hiện bởi con người mang trái tim tôi tớ Thiên Chúa như Đức Maria, khi Mẹ vội vã, hối hả lên đường, ngay sau khi được sứ thần Gabrien báo tin : Kià bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai : bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng (Lc 1, 36).  
Trong sự việc thăm viếng và ở lại giúp đỡ bà chị họ Êlisabét những ngày mãn nguyệt khai hoa (x. Lc 1,39-58), Đức Maria đã thi hành công việc của nữ tỳ của Chúa khi được thôi thúc đi đến nơi Thiên Chúa đang làm việc, đến gặp người Thiên Chúa đang tỏ quyền năng thương xót, đến chiêm ngưỡng, và đón nhận ơn Chúa đang ban cho dân Ngài.
Là nữ tỳ của Chúa, Mẹ đã được Chúa Thánh Thần thúc đẩy đến nơi Thiên Chúa muốn, như Đức Giêsu, Con của Mẹ đã luôn được Thánh Thần hướng dẫn. Và không chỉ đến những nơi Thiên Chúa muốn, mà còn đến để chúc tụng Thiên Chúa, ông chủ tốt lành của Mẹ, như trong kinh Tán Tụng Mẹ đã hớn hở cất lên, khi gặp chị họ Êlisabét : Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Ngài đoái thương nhìn tới (Lc 1,46-48).
Nếu so sánh lời kinh tán tụng của Đức Maria và bà Anna, thân mẫu của ngôn sứ Samuen (x. 1 S 2,1-10), chúng ta thấy tinh thần của hai vị không giống nhau, tuy cùng ca ngợi quyền năng của Thiên Chúa, nhưng một bên là Đức Maria thì khiêm tốn cúi đầu thờ lậy quyền năng của Thiên Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người (Lc 1,50), một bên là bà Anna dựa vào đó để sung sướng, đắc thắng trước những kẻ ngày xưa đã chế diễu, khinh thường mình ; một bên là Đức Maria với tâm tình của người tôi tớ vâng lời, và không có gì để mong ước, ngoài thánh ý Thiên Chúa, còn bên kia, bà Anna thì dường như chỉ thấy Chúa thương nhận lời van xin của mình để mình thoát khỏi tai tiếng là người son sẻ, kiểu cây độc không trái, gái độc không con.
Cũng với lời xin vâng của người tôi tớ Thiên Chúa trong buổi truyền tin, Đức Maria đã khiêm tốn câm lặng trước sự nghi ngờ của thánh Giuse, chồng mình, vì trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần (Mt 1,18), và tuyệt đối tín thác vào ông chủ là Thiên Chúa, Đấng sẽ giải cứu mình khỏi hoàn cảnh quá éo le, khó khăn, nan giải.
Và sau cùng, với lời xin vâng của nữ tỳ bé mọn của Chúa, Đức Maria đã đón nhận mọi cơ cực, khổ đau từ lúc sinh Đức Giêsu trong hang lừa, đem con đi trốn lệnh truy lùng của vua Hêrôđê, đến những ngày lạc mất con ở Giêrusalem, rồi tháng năm dong duổi truyền giáo với bao nhiêu chống đối, đe dọa bao vây con mình, và cuối cùng là đường Thánh Giá lên Núi Sọ, ở đó Mẹ đã đứng nhìn con yêu dấu chịu đóng đinh, chết tức tưởi như người tôi tớ đau khổ, bị bỏ rơi của Thiên Chúa Giavê.
Thực vậy, xác tín và chọn lựa của Đức Maria là trở nên nữ tỳ của Chúa, cũng như thái độ và cuộc sống của Mẹ là cuộc sống và thái độ của người tôi tớ khiêm tốn và tuyệt đối vâng phục thánh ý Thiên Chúa.
Thái độ và cuộc sống nữ tỳ Chúa của Đức Mẹ đã nhắc  nhở chúng ta : điều quan trọng trong khi phụng sự Chúa và phục vụ anh em không phải là được làm gì và làm được gì, nhưng là thái độ làm việc của một người tôi tớ biết mình vô dụng, bất xứng, và chỉ biết làm điều ông chủ muốn (x. Lc 17,10). Chính thái độ và tâm tình của người tôi tớ làm đẹp lòng Chúa hơn cả, bởi Chúa được tôn vinh nơi những người khiêm nhường, kính sợ Chúa, chứ không ở những phường lòng trí kiêu căng, và những ai quyền thế (Lc 1, 51-52). Đàng khác, nếu thiếu tâm tình và thái độ của người tôi tớ Chúa, chúng ta có thể rất nhiệt thành với việc Chúa, nhưng lại độc đoán, độc tài, cứng cỏi, lạnh lùng, kiêu hãnh, tự mãn, tự phụ đối với anh em, và không ngừng kể lể công lênh, ca tụng công đức, tuyên dương công trạng của mình, nhất là thay vì đóng đinh con người cũ của mình vào thập giá, ta lại thản nhiên, vô cảm ném đá, đóng đinh anh em mình.
Vâng, nét đẹp tuyệt vời ở Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ chúng ta chính là cuộc đời Nữ Tỳ khiêm nhu, vâng phục và xóa mình.
Cúi xin Mẹ thương bầu cử và dạy chúng ta sống đời Tôi Tớ Chúa như Mẹ.
Jorathe Nắng Tím