Pages - Menu

Thứ Hai, 9 tháng 3, 2020

CHỤP MŨ

Người nông dân nghèo, bà mẹ quê, cụ già ăn xin, hay bác thợ hồ làm ngày nào ăn ngày đó, thì chuyện mũ nón là chuyện nhỏ, vì chiếc nón rách bươm đã nhiều năm, cái mũ cũ mèm mà tuổi thọ có đến một phần tư thế kỷ, hay tầu lá chuối, miếng vải nhựa được dùng làm mũ nón “che nửa nắng, nửa mưa” cũng đã được coi là “ngon lành”. Nhưng làm mệnh phụ phu nhân, hoa hậu, người mẫu, đức vua, hoàng hậu, giám mục, hồng y, giáo hoàng thì mũ nón không là chuyện nhỏ, nhưng là chuyện lớn của người làm lớn, vì thiếu mũ nón, không ngự giá cho thần dân chầu được ; quên mũ nón, không thể xuất hiện trước bàn dân thiên hạ, nên chỉ riêng chuyện mũ nón thôi, người làm lớn cũng phải có nhiều người nhỏ ôm giữ, bảo qủan.
Như thế, chức vị càng cao, mũ đội càng qúy ; càng làm lớn, càng đội mũ to, và càng làm chuyện lớn, mũ nón càng nhiều. Ở đây, không đề cập đến những mũ cao ngất ngưởng, những nón rộng vành như muốn che cả mặt trời của ông to, bà lớn, người viết chỉ dám mạn bàn chuyện “chụp mũ”, mà nhiều người đã là nạn nhân, khi bị đối phương tìm cách đốn ngã, hạ bệ.
Vì mũ được đặt ở vị trí cao nhất của thân thể, lại không bị che khuất bởi bất cứ phần thân thể nào, nên mũ là đối tượng dễ thấy, dễ nhận và ấn tượng nhất, chưa kể khi mũ vút cao, rộng vành, được thêu thùa, sơn vẽ sặc sỡ, lại được gắn thêm chuông kêu kính koong, hay lục lạc nghe lẻng kẻng thì còn lôi cuốn đến mức nào.                
Mũ thu hút nhanh chóng, vì dễ thấy ; mũ bảo tồn lâu dài hình ảnh vì tạo ấn tượng. Đó là hai đặc điểm phải khai thác trong chiến thuật tung hê, ủng hộ, hay giập vùi, chống phá. Đó là cách cho đội mũ có gắn vô số các ngôi sao nhân đức tuyệt vời, và khả năng tuyệt hảo khi phò người nào, và chụp chiếc mũ gắn đầy gai nhọn xấu xa của tội lỗi và thói hư tật xấu trên đầu kẻ phải hạ bệ, truy diệt, tấn công.
Kinh nghiệm thường ngày cho chúng ta biết về hành vi “chụp mũ” :
1.   Chụp mũ  là việc làm hèn nhát, tồi bại của kẻ yếu:
Người trưởng thành có bản lãnh, có tư cách, có tâm có tầm không bao giờ chơi trò “chụp mũ”, vì đây là trò chơi ấu trĩ, hèn nhát, tồi bại, không bao giờ được thực hiện bởi người mạnh, người đạo đức, người trí thức lương thiện có tự trọng và tôn trọng người khác.
Bởi không tôn trọng người khác mới giở trò đánh lén, đâm sau lưng bằng “chụp mũ” ; bởi nếu “quang minh chính đại” thì đã gặp gỡ, trao đổi, thảo luận để cùng tìm ra chân lý và phương án giải quyết vấn đề nếu có. Trái lại, “chụp” cho ai điều gì có nghiã là chuyện đó chưa chắc đã có, chưa hẳn đã thật, nếu không muốn nói là hoàn toàn bịa đặt, ngụy tạo, dàn dựng, cũng như chụp cho ai chiếc mũ nào đó, chính là hành động lén lút, bất chính, bất minh, khi không dám để người bị chụp mũ thấy mình, biết mình là ai, khi lén lút chụp mũ họ.
Việc làm này chẳng khác hành động “chụp giật” của bọn cướp đường, giựt bóp, lừa đảo tiền bạc, mà dân gian thường gom chung vào một danh xưng : bọn “chụp giật”. Nếu có khác thì chỉ khác ở một điểm : “chụp mũ” nhắm hạ giá trị tinh thần như danh dự, uy tín, gia thế, ảnh hưởng… của người khác, và thủ phạm luôn dấu mặt, trong khi “chụp giật” nhắm đến giá trị vật chất như giây chuyền, hột xoàn, điện thoại xịn, bóp đầm hàng hiệu, đôla, xe máy… và thủ phạm vì phải trực tiếp “xuống tay”, “chạy hàng”, nên không thể dấu mặt, mà chỉ “che mặt” và biến nhanh.
Như thế, người “chụp mũ” và kẻ “chụp giật” đồng hạng trên thang đạo đức, đồng hạng mức độ nhân văn, đồng hạng tiêu chuẩn văn hóa, đồng hạng thành phần tội phạm, vì đây chính là trọng tội, vì cả hai đều xâm phạm, làm tổn thương người khác ; cả hai đều gian ác, bạo lực, hung dữ ; cả hai đều vô tâm, vô cảm, nhất là cả hai đều hèn và rất yếu trước nạn nhân.
2.     Chụp mũ là hành vi trơ trẽn, lố bịch khi sự thật được sáng tỏ :
Vì tự thân “chụp mũ” là gán cho người nào đó một hoặc nhiều việc xấu, mà họ không làm ; gắn vào đời ai đó một hoăc nhiều nhãn hiệu tồi tệ do những tội ác mà họ không phạm, quy kết cho đối tượng nào đó những ý nghĩ đồi bại, hoặc đường hướng bất lương, bất chính mà họ không hề theo đuổi, nên nền tảng của công trình “chụp mũ” được xây trên cát của dối trá, để làm thành một lâu đài ngụy tạo có bài bản, vu khống hồ đồ, kết án oan sai, hầu thoả mãn lòng ganh ghét, thủ đọan cạnh tranh không lương thiện, và tính kiêu căng của kẻ vừa dốt nát vừa vênh váo, ngạo mạn.
Vì được xây trên cát của dối trá, nên lâu đài “chụp mũ” sớm muộn sẽ sụp đổ tan tành, và bị cuốn trôi cách bẽ bàng, tang thương. Tang thương khi thời gian trả lại sự thật cho người bị chụp mũ ; bẽ bàng khi sự thật trả lại danh dự, uy tín cho nạn nhân, nhưng cùng lúc, thời gian hất tung mặt nạ, kéo xuống khẩu trang che kín những nham hiểm, trơ trẽn, lố bịch của kẻ gian ác, nhưng hèn nhát và sự thật sẽ nghiêm khắc định giá hành vi và con người đã “chụp mũ” ấy.
3.   Hậu qủa của chụp mũ :
Tất nhiên hậu qủa trước mắt là nạn nhân bị chụp mũ phải một phen tơi tả, te tua, vì sức công phá kinh khủng của đòn “chụp mũ”. Họ có thể mất hết : từ danh dự cá nhân, thế giá dòng tộc, uy tín, việc làm đến bề trên, bề ngang, bề dưới. Nhiều người “thân bại danh liệt” phải lui vào bóng tối chờ chết. Và trước mắt nhiều người, họ là người thất bại, thua cuộc vì có tội, bởi chiếc mũ được chụp đúng qúa, vừa qúa, hợp quá. Đám đông nhẹ dạ, thiếu suy ngfhĩ, phân định, sàng lọc thông tin, nhất là a dua chạy theo người có quyền, xu nịnh phe nhóm thắng thế sẽ tấm tắc khen ngợi người “chụp mũ” thật giỏi, thật khéo đã chụp trúng đầu tên tội đồ, kẻ tội lỗi chiếc mũ dành cho hắn.
Tỷ lệ nghịch với hậu qủa nạn nhân phải chịu là kết qủa tác giả của chiêu trò “chụp mũ”. Tác giả phi vụ gian ác, hèn nhát này sẽ vui vì thành công như ý muốn, có khi ngoài sức y tưởng tượng, và vì say men chiến thắng, y sẽ không còn dấu mặt nữa, nhưng sẽ xuất đầu lộ diện để kể công, được khen, và nhận thưởng.
Nhưng đó chỉ là những gì thấy được ở bên ngoài, còn bên trong tâm hồn, ở sâu thẳm nội tâm, câu chuyện hậu qủa và kết qủa không như vậy.
Không như vậy, vì hậu qủa và kết qủa đổi chỗ, đổi chủ cho nhau : người bị chụp mũ, sau cơn chấn động với những mất mát sẽ nhìn rõ hơn, hiểu thấu hơn, cảm nghiệm sâu sa hơn con người và việc đời, sự thật của con người và sự thật của đời người để lớn hơn một chút nữa trong tầm cảm của trái tim, để xa hơn một chút nữa trong tầm nhìn của khối óc, để vững chãi hơn một chút nữa trên nhịp chân, để đôi tay qủa cảm, can trường và quảng đại hơn một chút nữa để trao ban và đón nhận.  
Nhờ đó, hậu qủa biến thành kết qủa, nạn nhân trở thành hiền nhân khi yên lặng của “an nhiên tự tại”, bình an của “hiền lành, khiêm tốn”, đơn sơ của “trung tín, thật thà” giúp họ vượt qua thử thách, chắp thêm cho họ đôi cánh để bay vào niềm vui sâu lắng dạt dào, vì trong nhà họ không có chỗ cho người khách lạ mang tên Sợ Hãi, và trong hồn họ không giăng mắc, tơ vương hận thù.
Họ thực sự hạnh phúc, vì biết mình vượt xa người, và khoảng cách xa đó như những cây số cần phải đi qua để còn phải tiến rất xa.
Khác với người bị chụp mũ, sau khi hoàn thành công tác, người chụp mũ ra khỏi thời gian thinh lặng xây mưu đồ, ra khỏi bí mật những ngày toan tính, thủ đọan, để bước vào thời kỳ “ăn to nói lớn” hầu phô trương thành qủa “chụp mũ”.
Nhưng chính trong giai đọan chiến thắng vinh quang này, lương tâm giành phần nói với họ, lương tâm đòi họ yên lặng để nghe lương tâm nói. Đó cũng là lý do sau khi làm hại người khác, người ta không thể thinh lặng và ở yên một chỗ. Không phải họ không muốn thinh lặng, ở yên, nhưng lương tâm không cho họ ở yên, tĩnh lặng. Họ phải ba hoa chích choè, huyênh hoang bốc phét để khỏi phải nghe tiếng nói của chính mình ; phải ra khỏi nhà, ra khỏi đời mình để trốn chạy, tránh né lương tâm, vì hơn lúc nào hết, lương tâm không để họ yên ổn, bình an ; lương tâm bắt họ phải đối diện, giải trình ; lương tâm lục lại hồ sơ, lật lại chuyện cũ, chiếu lại cuốn phim tưởng đã có thể xóa bỏ, giấu nhẹm, phi tang.
Vâng, câu chuyện chụp mũ và bị chụp mũ là câu chuyện cũ như trái đất. Nhưng có một con người mà ai cũng nghĩ không thể bị chụp mũ, con người hoàn hảo về nhân đức, nhân văn, nhân bản, lại thương người, giúp người, cứu người. Thế mà con người ấy lại  bị chụp mũ hơn nhiều người, chụp mũ xấu xa và dơ bẩn hơn nhiều người, chụp mũ nặng nề đến độ phải chịu án tử hình và đóng đinh vào thập giá.
Người viết chỉ nêu ra một vài trường hợp trong Tin Mừng để làm chứng : Con Người ấy đã bị chụp mũ dã man hơn chúng ta.
Con người có tên Giêsu ấy dễ thương, dễ gần, dễ chạnh lòng trắc ẩn, hay ra tay cứu giúp, nên được đám dân nghèo đầu đường xó chợ thương, đám bệnh nhân không tiền đi bác sĩ, bệnh viện mến, đám bụi đi, tệ nạn xã hội bị mọi người nguyền rủa, khai trừ ngưỡng mộ. Và người ta hay thấy Ngài gặp gỡ thân tình, trò chuyện rôm rả, uống càphê, ăn cơm với đám người mà giai cấp “có quyền, có tiền, có chức” thường khinh bỉ gọi là “phường tội lỗi”.
Thánh sử Mátthêu ghi lại lời than thở của chính Đức Giêsu sau nhiều phen bị những người tự nhận mình là công chính “chụp mũ” : “Thật vậy, ông Gioan đến, không ăn không uống, thì thiên hạ bảo : “Ông ta bị qủy ám”, Con Người đến cũng ăn cũng uống như ai, thì thiên hạ lại bảo : Đây là tay bợm nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi (Mt 11,18-19). Thật ghê gớm miệng đời !
Khi chữa lành “một người bị qủy ám vừa mù lại vừa câm” (Mt 12,22), thì đám Pharisêu lại chụp mũ Ngài : Ông này trừ được qủy chỉ vì nhờ vào thế của qủy vương Bêendêbun (Mt 12,24). Thật kinh tởm lòng người !
Cho đến lúc này thì Đức Giêsu mới chỉ bị chụp mũ là “tay bợm nhậu, bạn bè của đám thu thuế và phường tội lỗi”, cũng như chỉ mới ở mức độ “cậy dựa quyền phép của qủy vương để trừ qủy con, qủy bé” thôi, phải chờ đến khi Ngài làm phép lạ chữa anh mù từ thuở mới sinh, thì thiên hạ mới tổng tất công “chụp mũ” Ngài.
Họ tổng tấn công khi chụp mũ Ngài không thể là người của Thiên Chúa, vì không giữ ngày sabát (Ga 9,16). Còn gay gắt và dữ dội hơn, họ dồn hết sức lực để đốn gục Ngài bằng cú chụp mũ kinh dị, khiếp khủng hơn tất cả, đó là chụp cho Ngài cái mũ người tội lỗi, khi to tiếng lớn miệng tri hô cho mọi người nghe : “Một ngưòi tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy ?” (Ga 9,16), và Chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi (Ga 9,24). Và để bịt miệng những ai biện bác lại, họ sẵn sàng chụp luôn cho người ấy cái mũ “người tội lỗi”, như đã chụp mũ anh mù được chữa lành, khi anh không đồng ý với luận điệu chụp mũ Đức Giêsu của họ : “Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư ?” (Ga 9,34).
Qủa thực, đòn ác nhất, chiêu độc nhất, ngón thâm nhất chính là chụp mũ người khác là người tội lỗi, bởi ai cũng có tội, ai cũng là tội nhân, ai cũng có khả năng phạm tội, khả thể lầm lỗi, nên chụp mũ “tội lỗi” sẽ dể thổi phồng, dễ thêm thắt, dễ làm cho tình trạng người khác bị nghi ngờ có tội thành người có tội thật, dễ cường điệu mức độ nghiêm trọng của tội lỗi, dễ biến tội nhân thành ghê tởm, đáng nguyền rủa, lên án, trừng phạt. Chụp mũ “tội lỗi” còn lợi thế có thể tiếp tục chất cao thêm đống tội, khoét sâu hơn vực thẳm tội, và nhận chìm sâu hơn danh dự, uy tín, cuộc đời người bị chụp mũ bất cứ lúc nào, mà không phải tốn nhiều công, theo kiểu khuyến mãi : trả một lần, được ăn mãi.
Đàng khác, khi chụp mũ “là kẻ tội lỗi”, người chụp mũ không mất công truy tìm căn cước của tội, nghiã là không cần nêu đích danh tội nào, nhưng có quyền gọi tên, và “chụp” mọi thứ tội nặng nhẹ, mà không vất vả, áy náy, hay bị người nghe hạch hỏi, phản biện, bởi cái lợi của chụp mũ “kẻ tội lỗi” là tính cách mông lung nhưng phổ quát, mờ nhạt nhưng để vào đâu cũng khít khao, lỏng lẻo nhưng xếp vào khâu nào cũng chặt chẽ, mạch lạc. Lợi hại ở chỗ đã chụp cho ai chiếc mũ tội lỗi rồi, thì kế họach hành hình, thủ đọan thanh toán người ấy mở ra như một vùng oanh kích tự do, miền đất chết toàn quyền truy diệt.
Tuy thế, trước toà án Philatô, khi những người tố cáo Đức Giêsu được Philatô hỏi : “Các ngươi tố cáo ông này về tội gì ?” (Ga 18,29) thì họ lại ú ớ, nhìn nhau trả lời “lạc đề”, mà chỉ trơ trẽn lấp liếm và cố tạo áp lực trên Philatô : “Nếu ông này không làm điều ác, thì chúng tôi đã chẳng đem nộp cho quan” (Ga 18,30). Trấc lấc câu trả lời của môi miệng gian dối, chua ngoa !
Philatô đâu có chờ câu trả lời lãng xẹc và vô duyên, vô nghiã đó của họ, vì họ đã trả lời như không trả lời, bởi không thể tìm ra bất cứ tội danh nào để tố cáo Đức Giêsu, nên khan giọng hùa nhau la ó, cốt tạo áp lực trên Philatô, để ông giao Ngài cho họ đem đi đóng đinh.         
Vâng, nếu Đức Giêsu là Đấng chí tôn chí thánh mà còn bị chụp mũ “kẻ tội lỗi”, thì những chiếc mũ “côn đồ, hoang đàng, dâm đãng” được chụp trên đầu, trên đời chúng ta nào có thấm thía gì ; nếu Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa, là Con Thiên Chúa mà còn bị chụp mũ là “người không thuộc về Thiên Chúa”, thì mũ “rối đạo, chống cha chống Chúa, con dê nằm vùng giữa đoàn chiên” được gán cho chúng ta tưởng chẳng nặng ký bao nhiêu ; nếu Đức Giêsu đơn sơ, giản dị, nghèo khó đến độ “con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có cả chỗ tựa đầu”, mà còn bị chụp mũ là tên bợm nhậu, bạn bè với phường tội lỗi, thì mấy cái mũ “đàn đúm ăn chơi, giang hồ lang bạt” mà thiên hạ “làm đẹp” đời chúng ta chắc phải xếp vào chuyện nhỏ, chẳng đáng quan tâm.
Nhưng điều đáng quan tâm, việc lớn phải làm, câu chuyện cần trao đổi, quyết định cần thực hiện, lệnh truyền cần thi hành, đó là mùa chay đang dần mở ra Tuần Thánh và Phục Sinh, như mở ra cho tất cả chúng ta, gồm những người chụp mũ, ném đá anh em, và những người  bị anh em ném đá, chụp mũ những con đường mới.
Đây là những con đường dành cho những con người yếu đuối  mà hôm nay có thể là nạn nhân đáng thương đang bị chụp mũ, đóng đinh, nhưng tháng tới, có thể biến thành kẻ chụp mũ, lý hình ném đá, đóng đinh người khác.
Như Đức Giêsu chịu chụp mũ, ném đá, đóng đinh bởi chính những người mình yêu thương, cứu giúp, chữa lành, bênh vực, gìn giữ, chúng ta hãy cùng Ngài bắt đầu lại tất cả, cùng để tất cả lại được bắt đầu bằng lên đường vào sa mạc, ở đó trong thinh lặng của sa mạc tâm hồn, Thiên Chúa mở lòng, mở trái tim để chúng ta đủ qủang đại bắt đầu sống lại Giao Ước mới ; chúng ta cũng đi với Chúa trên đường Thánh Giá của Lòng Thương Xót, để với Chúa chúng ta biết chạnh lòng và lại bắt đầu Thứ Tha, và con đường sau cùng không biên giới, đang mở ra thênh thang, bao la, mênh mông, ngút ngàn là đường đến với Muôn Dân, trên đó Thiên Chúa đồng hành với chúng ta và dậy chúng ta một chân lý quan trọng : chiến thắng lớn nhất của người môn đệ là mở đường cho người khác bắt đầu lại, cũng như chính mình lại bắt đầu yêu thương, tha thứ  khi ngày mới bắt đầu, như Thiên Chúa đã tha thứ, yêu thương.
Jorathe Nắng Tím

NGƯỜI CÔNG CHÍNH CỦA THIÊN CHÚA

                     Lễ THÁNH GIUSE, BẠN TRĂM NĂM ĐỨC MARIA, 19/3
Thánh Giuse là khuôn mặt rất lu mờ, rất ít được nhắc tới trong Tin Mừng, ngoại trừ thánh Matthêu với trình thuật tương đối đặc biệt liên quan đến ngài, khi nói về gốc tích của Đức Giêsu : “Bà Maria, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan tính như vậy, thì kià sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng : Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria, vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai, và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khjỏi tội lỗi của họ… Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như lời sứ thần Chúa dậy và đón vợ về nhà” (Mt 1,18-21.24).
Trong trình thuật trên, chúng ta thấy người công chính là thánh Giuse đã không hành động như nhiều người tự nhân là công chính hoặc được người đời phong cho danh hiệu “người công chính”.
Khác với nhiều người tự nhận là công chính, thánh Giuse đã rất im hơi lặng tiếng, và âm thầm sống đời công chính của mình, như tôi tớ của Thiên Chúa, khi không huyênh hoang đức công chính sáng ngời của mình, không vênh vang lên mặt là “người công chính, rất đẹp lòng Thiên Chúa” trước đám đông bất chính, tội lỗi. Thái độ kín đáo khi định tâm bỏ Đức Mẹ đã nói lên tinh thần khiêm tốn thẳm sâu và xóa mình triệt để của ngài.
Khác với nhiều người công chính tự nhận hay được người khác tuyên phong, thánh Giuse đã không tự mãn, tự phụ cho mình nắm chắc mọi sự, biết hết mọi điều, làm chủ được mọi tình huống, chỉ vì mình là người công chính được Thiên Chúa thương cách riêng, nhưng ngài biết mình bé nhỏ, thiếu thốn, nhiều giới hạn, nên lo lắng, băn khoăn khi thấy Đức Mẹ có thai. Chính thái độ phân vân, do dự, đi tìm giải pháp tốt nhất cho Đức Mẹ đã nói lên nét đẹp cao qúy của tâm hồn khiêm tốn, và trái tim đơn sơ của người nghèo khó trước mặt Thiên Chúa.
Khác với nhiều người tự cho mình là công chính, hay toại nguyện với đánh giá của người khác về sự công chính của mình, thánh Giuse đã không dựa vào sự công chính của mình, mà nghĩ mình là chân lý, và sự thật thuộc về riêng mình, nhưng biết mình không là gì, và chỉ biết dựa vào quyền năng, cũng như ơn phù trợ, soi sáng của Thiên Chúa. Vì thế, khi được thiên sứ hiện đến báo mộng, thánh Giuse đã tuyệt đối tin tưởng, phó thác và khi tỉnh giấc đã thực hiện ngay điều sứ thần dậy.
Khác với nhiều người tự phong mình là người công chính, và tìm kiếm lời chúc tụng của thiên hạ dành cho người công chính, thánh Giuse đã lặng lẽ chu toàn bổn phận nặng nề của người chủ gia đình, với một tinh thần xóa mình, quên mình, hiến mình, đến nỗi không thánh sử nào đã viết thêm gì về ngài, ngoài được nêu tên trong sự kiện giáng sinh ở Bêlem (x. Lc 2,1-17), tiến dâng Đức Giêsu cho Thiên Chúa (x. Lc 2,22-29), và những biến cố khó khăn của thánh gia như trốn sang Ai Cập (x. Mt 2,13-15), từ Ai Cập trở về đất Ítraen (x. 2,19-22), Đức Giêsu bị lạc mất ở Giêrusalem (x . Lc 2,41-50), và khi Đức Giêsu trở lại quê nhà Nadarét (x. Lc 4,16-24). Vì thế chúng ta biết rất ít về ngài.
Nhưng khác biệt quan trọng nhất mà chúng ta tìm được ở thánh Giuse, người công chính của Thiên Chúa, và những người công chính của thế gian khác, chính là thái độ đối với người khác.
Thực vậy, nếu trường hợp Đức Mẹ “có thai mà chưa ăn ở với chồng” rơi vào tay những “người công chính” kiểu thế gian khác, thì chưa chắc Đức Mẹ đã được yên, bởi những người công chính này sẽ nhân danh sự công chính “rất thánh thiện, không tỳ ố” của họ để lớn tiếng hạch sách, tra khảo, tố cáo, lên án người bị coi là ô uế, tội lỗi, bất chính, bất trung.
Những người công chính kiểu thế gian ấy sẽ không đủ khiêm tốn của người công chính đích thực như thánh Giuse, để biết mình cũng là con người, nên có thể sai, chưa thấy rõ, chưa nắm hết sự thật, chưa hiểu cặn kẽ đầu đuôi, ngọn ngành câu chuyện, để bình tĩnh đợi chờ ánh sáng của Thiên Chúa, và bình tâm đón nhận giải pháp bác ái, vị tha. Họ cũng sẽ không đủ tình yêu để cảm thông, thương xót người đang lâm cảnh dễ bị kết án, trừng phạt, để có thể như thánh Giuse, người công chính của Thiên Chúa thà chịu thiệt thân hơn để người khác khổ thân, kể cả khi người ấy xem ra có lỗi. 
Trước người vợ rành rành có thai mặc dù chưa một lần ân ái, người công chính của đời thường sẽ khó có thể bao dung, độ lượng, và tìm một giải pháp không làm tổn thương “người vợ phản bội, ngoại tình”, như người công chính Giuse đã định tâm bỏ đi cách kín đáo để giữ thanh danh cho Đức Mẹ, nhưng sẽ “làm ra nhẽ, truy tìm cho ra sự thật” và dậy cho người có lỗi, có tội một hoặc nhiều “bài học nhớ đời” cùng lúc.
Sở dĩ người công chính theo kiểu thế gian “mạnh tay, bạo miệng” trước người khác, nhất là trước người bị coi là bất chính, vì họ cho mình có quyền trên người khác, chỉ vì họ là người công chính. Nói cách khác, danh hiệu công chính cho họ quyền bất khả xâm phạm, đồng thời quyền xâm phạm bất cứ người nào.
Quyền của người công chính còn cho họ  nhân danh chân lý, nhân danh cơ chế, nhân danh lề luật, nhân danh bàn thờ, nhân danh thiên đàng, hoả ngục, và nhân danh cả Thiên Chúa để độc quyền luận tội, độc quyền kết án, độc quyền ra hình phạt cho những ai dưới mắt họ là bất chính, mà không cần tìm hiểu, lắng nghe một cách công tâm, khách quan, lương thiện, bởi người công chính với họ là người có quyền nắm giữ  toàn phần chân lý.
Người công chính kiểu thế gian còn là người kiêu căng, vô cảm, khi tự cho mình vị thế cao ngất ngưởng vượt trội mọi người, và vì cao xa, nên không nhịp cầu thông cảm nào nối được họ với những con người thấp kém, mọn hèn, yếu đuối khác. Vì thế, họ mang ảo tưởng là thần thánh, siêu nhân trước đám đông phàm tục, tầm thường. Từ đó trái tim họ khép kín, băng giá, chai lì, cằn cỗi, vô cảm. Và vì vô cảm, họ không biết cảm thương, chạnh lòng, nên ác ôn, tàn bạo, nhẫn tâm là điều khó tránh trong tư tưởng, lời nói, hành động của những người công chính kiểu thế gian này.
Họ cũng là người giả hình, xảo trá, vì một lý do : phải giữ đến cùng danh hiệu công chính đã dầy công tự tạo, lâu ngày “tô son trát phấn”, hoặc tốn kém mua chuộc, bởi mất đi danh hiệu công chính này, tất cả con người họ sẽ sụp đổ, vì họ đã lỡ xây dựng đời họ  trên ảo tưởng thánh thiện, ảo tưởng công chính, điều mà Thiên Chúa không bao giờ cho phép, như Đức Giêsu đã nặng lời trách mắng những kinh sư và Pharisêu giả hình trong Tin Mừng Mátthêu chương 23.
Vâng, là người công chính của Thiên Chúa, thánh Giuse không những phản ánh dung mạo hiền lành chịu đựng, khiêm nhường phục vụ, mà còn chiếu sáng lòng nhân hậu, thương xót, bao dung của Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người, mà Thánh Cả được chọn làm cha nuôi.
Như Đức Giêsu, người công chính ở thánh Giuse không chụp mũ ai là kẻ tội lỗi, ngay cả người ấy đáng tội ; không lên án ai là kẻ bất chính, vì Thiên Chúa làm mưa nắng trên cả kẻ dữ lẫn người lành (x.Mt 5,45) ; không ra tay điểm mặt ai là kẻ “đáng sa hoả ngục”, “vì ở đâu tội lỗi đầy tràn, ở đó ơn sủng chứa chan” (Rm 5,20) ; không thẳng tay “sát thủ” ném đá ai, vì biết chẳng ai là người không có tội trước mặt Thiên Chúa (x. Ga 8,1-11) ; không dồn ai vào đường cùng, thế bí, vì thánh nhân nào chẳng có một qúa khứ nhạt nhoà lầm lỗi, và một tương lai tràn đầy hy vọng ; không từ chối ai một bàn tay nâng đỡ, một lời nói ủi an, một tâm sự chia sẻ, một bước chân đồng hành, một việc làm cứu chữa, bởi công chính của Thiên Chúa chính là thương xót, cứu độ ; công chính của Thiên Chúa là hiến mình chuộc tội ; công chính của Thiên Chúa là “tha cho cả những kẻ làm khổ mình” với tình yêu chống chế, bênh vực : “Vì họ không biết việc họ làm” của Đức Giêsu, Đấng tuyệt đối công chính đã thương xót tha thứ cho hết mọi người trên Thánh Giá (Lc 23,34). 
Thực vậy, rất nhiều khi chúng ta nghĩ mình là người công chính và đã làm tổn thương anh em ; rất nhiều lần chúng ta ảo tưởng mình thánh thiện và đã khinh khi, dập vùi người khác ; rất nhiều người lầm tưởng chúng ta công chính và đã vô lý kính sợ, thần tượng chúng ta là người thuộc về Thiên Chúa ; rất nhiều trường hợp chúng ta đã lợi dụng, nhiều cơ hội chúng ta đã vay mượn, nhiều người bé mọn chúng ta đã đạp lên để đạt cho kỳ được danh hiệu người công chính, và không biết bao nhiêu lần, chúng ta đã mượn hai chữ “công chính” để làm những điều bất chính, mà cứ thảnh thơi, thư thới với lương tâm giả hiệu công chính của mình.
Lễ thánh Giuse, người công chính của Thiên Chúa, là dịp để chúng ta học với ngài gương sống của người công chính đích danh, đích thực : khiêm tốn thẳm sâu, xóa mình phục vụ, không bao giờ chụp mũ ai là người tội lỗi, miệt thị ai là kẻ bất chính, bất lương, vì người công chính của Thiên Chúa phải giống Thiên Chúa là “Chiên gánh tội trần gian” (Ga 1,29), và là “Đấng từ bi nhân hậu, chậm bất bình và chan chứa tình thương” (Tv 102,8).
 Jorathe Nắng Tím     
        

KHÁT NƯỚC

Suy Niệm TIN MỪNG CHÚA NHẬT 3 Mùa Chay, Năm A
Khát đáng sợ hơn đói, vì đói vài ngày vẫn là chuyện nhỏ, nhưng khát ba ngày giữa mùa hè nóng bức sẽ là chuyện lớn, phát sinh thành lớn chuyện.
Khi khát, người ta tìm nước ở ao hồ, sông rạch. Thôn quê Việt Nam không lạ lẫm gì với giếng nước ở giữa làng, ở đó bà con hằng ngày lũ lượt đến kín nước về uống, tắm giặt.
Ngày ấy, trên đường rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu phải băng qua Samari là vùng đất thù nghịch đối với người Do Thái, đến một thành có tên là Xykha, “ở đấy có giếng của ông Giacóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc ấy khoảng mười hai giờ trưa” (Ga 4,6).
Thánh sử Gioan đã rất chi tiết khi ghi rõ : Đức Giêsu đến bờ giếng vào “mười hai giờ trưa”, cái giờ nắng gắt chói chan, mà ai đã có lần đi viếng Đất Thánh đều phải sợ.
Lúc bấy giờ, “có một người phụ nữ Samari đến lấy nước. Đức Giêsu nói với người ấy : Chị cho tôi xin chút nước uống !” (Ga 4,7). Và chị ấy đã cho Đức Giêsu nước uống, bằng chứng là chị đã ngạc nhiên hỏi  Đức Giêsu : “Ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông uống nước sao ?” (Ga 4,9).
Nhưng chỉ sau một cuộc đối thoại ngắn, ở đó, Đức Giêsu nói với chị về nước hằng sống, mà Ngài sẽ ban cho, khi qủa quyết : “Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4,13-14), thì người cho trở thành người xin, khi chị nói với Đức Giêsu : “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát, và khỏi phải đến đây lấy nước nữa” (Ga 4,15).
Đến lúc này thì bên bờ giếng Giacóp hôm ấy, dưới cái nắng trưa làm khát cổ, cháy da, có hai người khát nước xin nhau nước uống :
1.   Đức Giêsu khát niềm tin của người phụ nữ Samari :
Gặp gỡ và ngỏ lời xin nước uống, Đức Giêsu đã đi vào đối thoại thân tình với người phụ nữ lận đận, vất vả trong đường tình duyên, gia đình, vì chị “đã năm đời chồng, và người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị” (Ga 4,18), để rồi khơi dậy trong chị ánh sáng sự thật, sự thật của đời chị, bởi niềm tin Thiên Chúa phải khởi đi từ sự thật của chính mình. Nói cách khác, người ta không thể tin Thiên Chúa, không thể đi vào tình yêu của Thiên Chúa, nếu không thật với chính mình, không dám nhìn nhận sự thật về mình, không can đảm đối diện với những gì “mình là, mình có”, bởi sự thật của “cái tôi” là nền tảng của niềm tin ở Thiên Chúa, nên sẽ không có niềm tin đích thực ở Thiên Chúa, bao lâu còn giấu diếm, che đậy sự thật của “cái tôi” ; sẽ không thể tin Chúa, nếu không dám tin mình, khi chấp nhận toàn bộ sự thật của mình, dù sư thật ấy có đen đúa, xơ xác, tiều tụy đến đâu.
Người phụ nữ đã thật với chính mình, để có thể nhận ra mình cần nước hằng sống, cần thứ nước của Đức Giêsu, mà “ai uống, sẽ không bao giờ khát nữa” (Ga 4,14). Nhờ nhận ra sự thật của mình, mà chị đã nhận ra : Đức Giêsu “thật là một ngôn sứ” (Ga 4,19), là “Đấng Mêsia, gọi là Đức Kitô” (x. Ga 4,25-26), và vấn nạn từ lâu làm trăn trở tâm hồn chị về Thiên Chúa đã được Đức Giêsu tháo gỡ : “Này chị, hãy tin tôi : đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem… Nhưng giờ đã đến, và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật” (Ga 4,21.23).
Đức Giêsu khát niềm tin, và Ngài đã nhận được nước uống của niềm tin nơi người phụ nữ Samari bên bờ giếng, khi “có nhiều người Samari trong thành đó đã tin vào Đức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng : ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm” (Ga 4,39).
2.   Người phụ nữ Samari khát tình yêu đích thực :
Câu chuyện giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacóp thật thân tình, dễ thương, và đầy tin tưởng  giữa hai người. Nhờ bầu khí thân thiện, ân tình và tương kính này, mà người phụ nữ với nhiều mặc cảm vì tình duyên và đời vợ chồng trắc trở mới có thể trút bỏ tâm sự thầm kín, và thao thức, khắc khoải với Đức Giêsu, người đàn ông Do Thái đã dám xin nước chị là người phụ nữ Samari bị coi là thù nghịch.
Khi chia sẻ, tâm sự với Đức Giêsu về nỗi trống vắng của tâm hồn, không chỉ là trống vắng tình yêu, hạnh phúc, mà còn là trống vắng của niềm tin, trống vắng lý tưởng sống, trống vắng lẽ sống, người phụ nữ Samari đã gặp được Đấng làm cho chị khỏi khát nữa, khi ban cho chị nước hằng sống là Ân Huệ của Thiên Chúa, khi nói với chị : “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chi : ‘Cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống” (Ga 4,10). Và chị ấy đã xin và đã nhận được Tình Yêu, Hạnh Phúc, và Bình An của Đấng Cứu Thế, khi chị tin vào lời Đức Giêsu nói với chị : “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây” (Ga 4,26), và khi chị “để vò nước lại, vào thành và nói với người ta : Đến mà xem : có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao ?” (Ga 4,29).
Vâng, người phụ nữ Samari đã khát tình yêu, và chị đã gặp được Tình Yêu đích thực, đời đời là chính Thiên Chúa ở Đức Giêsu Kitô, Đấng đã làm bước chân thứ nhất đến với chị, và mở lời đầu tiên “xin chị nước uống”, vì yêu chị và không muốn chị phải khát nữa, bởi chỉ Tình Yêu Thiên Chúa mới làm “đã khát” cơn khát tình yêu trong chị ; chỉ Tình Yêu Đức Giêsu mới cho chị Nước Hằng Sống để trái tim chị từ nay không bao giờ phải khát nữa.  
Qủa thực, như dân Do Thái xưa trong cơn khát giữa sa mạc nắng cháy đã nghi ngờ tình thương của Đức Chúa Giavê và bị qửơ trách : “Các ngươi chớ cứng lòng như tại Mơriva, như ngày ở Maxa trong sa mạc, nơi tổ phụ các ngươi đã từng thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm” (Tv 94,8-9), chúng ta trong cơn khát ơn sủng, cũng có thể rơi vào những cám đỗ đủ loại dẫn đến nguy cơ đánh mất sự sống đời đời.
Và Mùa Chay chính là cơ hội làm sống lại tinh thần và sức sống của Bí Tích Rửa Tội, ở đó chúng ta nhận được nguồn sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Chỉ một điều kiện Thiên Chúa đòi để được nhận Nước Hằng Sống, để không còn phải khát và “chết vì khát”, đó là sống thật với chính mình và với Thiên Chúa. Đây là chià khóa mở cửa tâm hồn, cởi trói trái tim để “Thiên Chúa đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,5).  
Jorathe Nắng Tím