Khi
rơi vào tình trạng hoang mang, mất phương hướng, hay ở vào tình thế sự sống bị đe
dọa, tâm lý chung là đặt lại vấn đề. Có rất nhiều vấn đề được đặt lại, khi đời
sống bỗng lạc nhịp, bất thường, không còn bình thường, bình an, bình ổn, bởi
khi gặp khó khăn, thất bại, thua cuộc, nguy biến, người ta luôn cần một tác giả,
một thủ phạm, một tội đồ, một vật tế thần để cắt nghiã sự việc, để đổ lỗi đổ tội,
để lý giải nguyên nhân, cũng như để có đôi vai gánh vác hết hậu qủa nặng nề. Và
một trong những vấn đề rất thường được người trong cơn khủng hoảng đặt lại, chính
là vấn đề niềm tin tôn giáo.
Kinh
nghiệm sống đức tin cũng cho chúng ta thấy: nếu đời sống không gặp gian truân,
thử thách, nếu vợ chồng lúc nào cũng “cơm lành canh ngọt”, nếu con cái đứa nào
cũng mạnh khỏe, ngoan hiền, thông minh, chăm chỉ, nếu đường sự nghiệp, công
danh luôn hạnh thông, nếu đất nước thái bình, an lạc, nếu xã hội có công lý hướng
dẫn, giáo hội có yêu thương bao phủ, thì chẳng mấy khi đức tin phải được đặt lại,
và cuộc sống đạo sẽ mãi êm đềm như mặt nước hồ thu.
Chỉ
khi sóng gió cuộc đời nổi lên, phong ba gia đình nổi dậy, bão tố sự nghiệp bùng
nổ dữ dội, chúng ta mới xem lại niềm tin tôn giáo của mình, ở đó, ngay Đấng bấy
lâu chúng ta tôn thờ, giáo lý bấy lâu chúng ta tuân giữ, giáo hội bấy lâu chúng
ta thuộc về, cộng đoàn bấy lâu chúng ta gắn bó sinh hoạt cũng sẽ lần lượt bị chúng
ta đặt lại lý do có mặt trong đời sống, với số phận tương lai của chúng ta.
Sở
dĩ ngay cả sự có mặt của Thiên Chúa trong đời chúng ta cũng có thể bị đặt lại,
vì lúc này đây, khi rơi vào hoàn cảnh bĩ cực, lâm vào tình trạng nửa sống nửa
chết, bị kẹt vào chân tường, ngõ cụt, thì sự an toàn của chúng ta, an ninh của
đời chúng ta, an sinh của cuộc sống chúng ta có khuynh hướng trở thành duy nhất,
độc tôn thống trị và vô cùng quan trọng. Nó không chỉ là thước đo mức đáng tin
cậy của niềm tin chúng ta đang có, mà còn là lý do của niềm tin này. Nói cách
khác, chúng ta sẽ đặt an ninh của chính mình là mục tiêu, và Đấng nào, tôn giáo
nào, giáo lý nào đáp ứng nhanh chóng và hữu hiệu mục tiêu do chúng ta đề ra, mới
đáng cho chúng ta tiếp tục tin tưởng, tôn thờ, đi theo. Trái lại, như người sắp chết đuối, đang hốt hoảng ngụp lặn
giữa biển khơi, chúng ta chỉ mong bám được vào bất cứ vật gì, miễn sự sống của
chúng ta được bảo đảm. Cũng vì thế đức tin bị chính chúng ta đặt lại vấn đề
ngay trong lúc mà đáng lẽ ra đức tin ấy phải là cột trụ, là đá tảng chở che an
toàn, nơi trú ẩn tuyệt đối an ninh.
Vì
thế, sẽ không luôn tự động, tự nhiên đức tin của chúng ta trở nên vững mạnh hơn,
tình yêu Giáo Hội của chúng ta nồng nàn, gắn bó hơn, tinh thần sống đạo của chúng
ta sâu sắc, trưởng thành hơn khi chúng ta gặp chông gai, thách đố, nhưng một sự
thật phũ phàng được xác minh bởi các nhà tâm lý, xã hội, cũng như tôn giáo học,
thần học, đó là cơn cám dỗ không luôn dễ vượt qua ở nhiều người khi từ bỏ niềm tin tôn giáo để chạy theo các
giáo phái trong những lúc gặp thử thách, khủng hoảng.
Trước
khi đi vào những đặc tính của giáo phái, cũng là những dấu hiệu phân biệt niềm
tin tôn giáo chính đáng với niềm tin mang tính ảo tưởng, lệch lạc, cục bộ, qúa
khích với nhiều nguy hiểm, rủi ro tâm lý nơi các giáo phái, chúng ta một lần nữa
lưu tâm đến cơn khủng hoảng toàn cầu do Covid-19 gây ra, như cơ hội phát triển
mạnh của các giáo phái, và giai đọan mà niềm tin tôn giáo của nhiều người dễ bị
chao đảo, lệch hướng.
1.
Một
cái nhìn về giáo phái:
a.
Giáo Phái và những đặc
tính:
Giáo
phái được hiểu là một nhóm người cùng tách ra khỏi một tôn giáo chính thức, để
thực hiện quan điểm riêng của mình.
Một
cách vắn tắt, chúng ta hiểu rằng những người theo giáo phái trước đó đã từng ở
trong một tôn giáo chính danh, chính thức, có hệ thống giáo lý đức tin, có tổ
chức phụng tự, có giới răn, kỷ luật, nhưng vì một lý do nào đó, ngoài lợi ích cá
nhân, như bất mãn với giáo quyền, không chấp nhận một điều khoản hay một phần của
giáo lý đã tự ý rời bỏ Giáo Hội, để thành lập một nhóm, một hệ phái mới với chủ
trương, quan điểm, đường lối riêng, thường đối nghịch với giáo lý mình đã theo
trước đó một cách rất cực đoan, qúa khích.
Các nghiên cứu
trên thế giới về giáo phái đều đồng ý với nhau ở những điểm chung:
· Chủ
trương của giáo phái thường lệch lạc về phương diện tín lý và thiếu hẳn quân
bình tâm lý.
· Phương
cách của các giáo phái có khuynh hướng khống chế, đàn áp và hủy hoại tâm lý của
thành viên, với mục đích biến họ thành những con cừu ngoan ngoãn, mất khả năng
phân định, chọn lựa.
· Người
thành lập, hoặc đứng đầu giáo phái đa số là những người bị tâm bệnh với tính độc
đoán, độc tài, cực đoan và sắt máu.
Đặc biệt nhà
nghiên cứu nổi tiếng về hiện tượng các giáo phái Harvey Cox
đã đưa ra những kết luận rất đáng quan tâm:
· Các
giáo phái luôn đe dọa bình an của xã hội, do ước muốn đảo ngược toàn thể trật tự
xã hội sẵn có.
· Sinh hoạt khép kín của các giáo phái thường đưa
đến những lạm dụng tình dục như ấu dâm, loạn luân, làm tình tập thể, hoặc ngược
lại là tiết dục tuyệt đối.
· Tính
cách cộng đoàn tự ý ly khai tách rời khỏi xã hội của các giáo phái tạo nên đường
lối lừa đảo, gian trá trong mọi sinh hoạt.
· Kỷ
luật khắt khe của giáo phái là tiền đề cho những khủng bố tinh thần, áp đảo tâm
lý đối với các thành viên.
Bên
cạnh những nghiên cứu trên là những ghi
nhận của ngành tư pháp liên quan đến hiện tượng tự tử hoặc sát hại tập thể của
nhiều giáo phái khắp nơi trên thế giới, mà ở đây, người viết chỉ nêu ra một
số trường hợp điển hình từ năm 1978:
· Ngày
18.11.1978: 914 thành viên của giáo phái “Đền Thờ của Dân – People’s Temple”,
trong đó có 260 trẻ em bị sát hại tập thể bằng chất cyanure theo lệnh của thủ lãnh giáo phái Jim Jones,
người này đã tự tử bằng súng sau đó.
· Ngày
19.09.1985: 60 thành viên của giáo phái D. Mangayanon đã cùng tự tử ở Mindanao,
Philippines.
· Ngày
28.08.1987: 32 thành viên của giáo phái Parkson đã tập thể tự sát ở Seoul, Hàn
Quốc.
· Ngày
19.04.1993: 76 thành viên giáo phái Davidiens, trong đó có 21 trẻ em đã phát lửa
tự thiêu sống trong đền thờ của giáo phái tại Texas, Hoa Kỳ.
· Từ
ngày 30.09.1994 đến 22.03.1997, giáo phái Đền Thờ Mặt Trời (Ordre du Temple
Solaire - OTS) đã liên tục tự sát tập thể: 5 thành viên cùng tự thiêu ở Québec,
Canada ngày 30.09.1994 ; 48 người cùng chết cháy ở Thụy Sĩ ngày 5.10.1994;
16 người tự thiêu ở Vercors ngày 15.12.1995, và 5 người tự thiêu ở Saint - Casimir
ngày 22.03.1997
· Ngày
18.03.2000: 500 thành viên của giáo phái Tận Thế, do Joseph Kibwetere lãnh đạo đã
cùng tự thiêu tại Kanungu, Ouganda.
· Ngày
28.05.2014: cuộc tự sát tập thể của giáo phái Mc Donald’s ở Zhaoyuan, Trung Quốc
đã làm thế giới kinh hoàng.
b.
Giáo phái Nhân Chứng
Giêhôva “Jehovah’s Witnesses – Les Témoins
de Jéhovah”.
Người
viết muốn dừng lại ở đây để trình bầy thêm về giáo phái rất đặc biệt này. Nét đặc
biệt của giáo phái Nhân Chứng Giêhôva là duy trì được tính mơ hồ, không rõ ràng,
nhờ thế đã đánh lừa được dư luận và tồn tại lâu đời hơn nhiều giáo phái khác, vì
pháp luật không đủ lý chứng để xếp tổ chức này vào hàng ngũ giáo phái có hại cho
xã hội, nguy hiểm cho cá nhân, và thành công mới nhất của họ ở những năm gần đây
là đạt được tính cách pháp lý của “nhóm
những tín đồ còn sót lại của Kitô giáo cổ đại, truyền thống”.
Giáo
phái được Charles Taze Russel thành lập năm 1870 tại Hoa Kỳ, với hơn 8 triệu tín
đồ trên toàn thế giới, trụ sở trung ương đặt tại Watch Tower, New York, với chủ
trương:
· Thành
viên giáo phái là thiểu số được chọn và được cứu ở ngày tận thế. Những người được
cứu này sẽ đứng trên ngọn đồi có tên Armegeddon ở Galilê được nhắc đến trong sách
Khải Huyền: “Đây Ta đến như kẻ trộm. Phúc
thay kẻ canh thức và giữ áo mình, kẻo phải đi đứng trần truồng và bị người ta
nhìn thấy sự loã lồ của mình. Chúng quy tụ họ ở một nơi, tiếng Híppri gọi là
Hácmơghítđô” (Kh 16,15-16) (tiếng Anh là Armageddon, tiếng Pháp là
Armaguédon).
· Sứ
mạng của thành viên được Thiên Chúa trao là
tái tạo lại Kitô giáo thuở ban đầu,
thời nguyên thủy.
· Họ
tin Đức Giêsu là Thiên Chúa đã chết và sống lại, nhưng không chấp nhận mầu nhiệm
Thiên Chúa Ba Ngôi.
· Trong
sinh hoạt xã hội, họ chủ trương biệt lập, vì tự cho mình là thiểu số được chọn
và được Đức Giêhôva đặc biệt sủng ái. Thái độ thường nhận thấy ở họ là ảo tưởng
sự thánh thiện vượt trội của mình, và coi thường người khác. Họ từ chối nhận máu
của người khác, kể cả khi thập tử nhất sinh, và không chấp nhận hệ thống giáo dục
bình thường của xã hội.
Trên
đây là một vài nét đại cương về hiện tượng giáo phái, với mục đích giúp người tín
hữu chúng ta nhận định sáng suốt để khôn ngoan trước những cạm bẫy rất thường
được giăng trên mọi lối ngõ cuộc đời, bởi với phương tiện truyền thông ngày càng
dễ dàng và bao trùm, nhanh chóng, rất nhiều giáo phái với những giáo lý sai lạc
đang làm lu mờ chân lý đức tin mà Giáo Hội được Đức Giêsu ủy thác gìn giữ nguyên
vẹn, và lôi kéo chúng ta đi theo những chủ trương phản Tin Mừng, khi biến “đức
tin” đã bị họ bóp méo thành công cụ đàn áp tự do của con người, dùng “giáo lý” đã
bị họ đầu độc để khống chế quyền chọn lựa,
quyết định theo lương tâm của cá nhân, sử dụng chiêu bài cứu rỗi đã được họ sơn
phết lại để nghiền nát sự sống, tiêu diệt hạnh phúc, bình an của con người, tắt
một lời là dùng gian dối, bạo lực để đưa nhân loại vào hủy diệt.
Và
đứng trước những cám dỗ ly khai Giáo Hội, đi theo giáo phái, chúng ta được tha
thiết mời gọi ngước nhìn Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất, là “Đường, Sự Thật và
Sự Sống”.
2.
Đức
Giêsu là “Đường, Sự Thật và Sự Sống” (Ga 14,6).
Đức
Giêsu đã mặc khải cho các môn đệ: Ngài
là Đường, Sự Thật và Sự Sống trong bối cảnh đặc biệt của những ngày cuối đời
ở dương thế, cũng là những giây phút cuối cùng ở với các môn đệ trước khi lên
Giêrusalem chịu khổ hình và tử nạn…, nên tâm trạng của Ngài thì bồi hồi và tâm
trạng các môn đệ thì xao xuyến.
Đức Giêsu bồi hồi,
vì “vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người thương họ đến
cùng” (Ga 13,1), trong khi các môn đệ xao
xuyến vì không biết mình đang ở đâu, sẽ đi đâu khi linh cảm thấy rất nhiều
chuyện chẳng lành sắp xẩy ra, rất nhiều biến cố đau thương, nghiệt ngã sắp đổ
xuống trên Thầy và những người đi theo Thầy như các ông.
Không
kể những lần báo trước sẽ bị nộp, và “chịu
nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết,
và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21, tức thời đây, Thầy còn loan báo thêm
một tin sét đánh “có một người trong anh
em sẽ nộp Thầy” (Ga 13,21), rồi cả
Phêrô, người môn đệ trưởng được Thầy tín nhiệm cũng không thoát khỏi cơn cám dỗ
phản bội, khi Đức Giêsu công khai cảnh báo ông: “Anh sẽ thí mạng vì Thầy ư ? Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: gà
chưa gáy, anh đã chối Thầy ba lần” (Ga 13,38), ngay sau khi ông hùng hồn
tuyên bố: “Thưa Thầy, sao con lại không thể đi theo Thầy ngay bây giờ được? Con
sẽ thí mạng con vì Thầy” (Ga 13,37).
Như
thế, các môn đệ đã rất khủng hoảng, lo sợ khi chung quanh các thượng tế, kỳ mục
và nhóm Pharisêu đang ráo riết chuẩn bị những khâu cuối cùng của kế hoạch bắt Đức
Giêsu và giao nộp Ngải cho chính quyền Rôma với đủ thứ tội danh, hầu đạt được từ
tay quan tổng trấn Philatô bản án tử hình đóng đinh Ngài là mục tiêu phải đạt
cho kỳ được của toàn bộ cơ chế đạo cũ. Vì thế, tâm trạng của các môn đệ lúc này
là rất hoang mang, lo sợ, hốt hoảng… trước một tương lai không những đen tối, mờ
mịt, mà còn vô vàn khó khăn, bế tắc, nguy hiểm.
Tình
hình ấy không mấy khác tình huống của chúng ta: cũng phập phồng lo sợ, run rẩy
đợi chờ những điều xấu sắp xẩy đến, và hoàn toàn bất lực trước những biến cố bất
ngờ không thể tiên liệu, đề phòng, dự đóan. Và chính trong hoàn cảnh bi đát,
nhiều rủi ro, nhiều cám dỗ bỏ cuộc, bỏ Thầy, bỏ nhóm của các môn đệ, cũng như
chúng ta hôm nay giữa sóng gió thử thách đang nghi nan, muốn đặt lại nhiều vấn
đề, trong đó có cả vấn đề đức tin, Giáo Hội, mà Đức Giêsu đã trấn an bằng mặc
khải: “Thầy là Đường, Sự Thật và Sự Sống”
a.
Qủa
quyết với các môn đệ: “Thầy là Đường”, Đức Giêsu trấn
tĩnh các ông, để các ông đừng lo bị lầm đường, lạc lối khi bỏ mọi sự mà đi theo
Ngài, vì Ngài biết: khi đáp lại lời mời gọi của Ngài, các ông cũng đã suy nghĩ
để không bị xỏ mũi dắt đi “loanh quanh cho đời mỏi mệt”, mà cuối cùng chẳng được
gì, có khi lại thiệt thân, toi mạng, bởi các ông thừa biết đã có rất nhiều người
cũng hối hả đi tìm đường sống, nhưng cuối cùng đã rơi vào tử lộ; nhiều người đã
tưởng gặp thấy đường quang vinh, nào ngờ chỉ thấy đường cùng, ngõ cụt; nhiều
người suốt đời vất vả đầu tư cho con đường hạnh phúc, cuối cùng cả đời chỉ là
những cây số đau thương, bất hạnh.
Và
điều quan trọng nhất, Đức Giêsu đã nhấn mạnh để các ông tin Ngài là Đường đích
thực, Đường Hạnh Phúc, Đường Bình An, đó là “Không ai có thể đến với Chúa Cha, mà không qua Thầy” (Ga 14,6), không
ai có thể đến với Thiên Chúa, mà không qua Ngài là “Thiên Chúa làm người”, không
ai có thể vào Nước Trời mà không đi qua Ngài là Nhà của Thiên Chúa giữa nhân loại,
và “là cửa chuồng chiên, cho chiên ra vào” (Ga 10,7).
b.
Khẳng
định với các môn đệ: “Thầy là Sự Thật”,
Đức Giêsu làm dịu cơn sốt bị phỉnh gạt, lừa dối khi đi theo Ngài, như các ông đã
ít nhiều từng bị thiên hạ “cho ăn bánh vẽ”, leo cây, “đi tầu bay giấy” cách này
cách khác.
Qủa
thực, ở bất cứ thời nào và ở đâu, con người đều khao khát sự thật, vì chỉ sự thật
mới đem lại bình an, vì chỉ sự thật mới giải phóng con người khỏi ngục tù của dối
trá, nghi nan, ngờ vực là nguyên nhân gây nên vô vàn bất hạnh trong tương quan giữa
người với người, bởi sống không sự thật, sống với người không tôn trọng sự thật,
sống trong môi trường, xã hội sự thật bị bức tử, người ta không sống, nhưng
đúng nghiã là sống một cái chết được triển hạn, sống một cái chết dần mòn, chập
chùng từng bước làm thối rữa thân thể đang phải mở to mắt, mở toang họng để thấy
và nuốt từng giọt đắng của nỗi bất hạnh lớn nhất của đời người là không được sống thật với mình và với người.
Nhận
mình là Sự Thật, Đức Giêsu lấy chính mình để bảo đảm cho niềm tin của các môn đệ,
và bảo đảm ấy trăm phần trăm vững chắc, vì Ngài nói với các ông: “Nếu
anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy” (Ga 14,7), nghiã là Thầy
là Sự Thật của Thiên Chúa Cha, nên không cỏn sự thật nào thật hơn, không còn sự
thật nào tuyệt hảo hơn, cũng không sự thật nào bảo đảm bình an, hạnh phúc hơn
chính Thẩy.
Đức
Giêsu còn củng cố lòng tin của các môn đệ, khi cho các ông biết thêm: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh
em một Đấng Bảo Trợ. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón
nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người,
vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em” (Ga 14,16-17).
c.
Xác
quyết với các môn đệ: “Thầy là Sự Sống”,
Đức Giêsu giải thoát các ông khỏi nỗi sợ thân phận là phải chết, và đưa các ông
ra khỏi nỗi ám ảnh triền miên của kiếp người phải chết, bởi ai cũng sợ chết, ai
cũng ngao ngán cái chết, và ai cũng dễ thất vọng vì biết mình phải chết.
Chính
vì chết qúa kinh dị, và bí mật đến kinh hãi, mà phần đông đã tìm đến niềm tin tôn
giáo để có câu trả lời, nên bao lâu tôn giáo không cho đáp án mong đợi, giáo lý
không đáp ứng nhu cầu cháy bỏng của con người muốn biết chết là gì, tại sao phải
chết, chết rồi đi đâu…, thì bấy lâu con người còn nghi nan, sợ hãi và phải lang
thang, vật vờ đi tìm đó đây câu trả lời
cho vấn nạn sự sống.
Đức
Giêsu muốn ban bình an cho đời sống các ông, khi xác quyết với các ông Ngài là
sự sống, như đã nhiều lần làm phép lạ cho người chết sống lại trước mặt các ông,
và đã từng nói với các ông: “Chính Thầy
là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết, cũng sẽ được sống.
Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11,25-26).
Và
một lần nữa, Đức Giêsu đặt xác quyết này trên nền tảng sự sống của Thiên Chúa
Cha: “Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được
sống. Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy,
và Thầy ở trong anh em” (Ga 14,19-20).
Qủa
thực, ba nhu cầu căn bản của con người để bình an, hạnh phúc là đi đúng đường, có sự thật và được sống.
Đó cũng là mục tiêu mà con người đi tìm trên hành trình làm người.
Đức
Giêsu, Tình Yêu của Chúa Cha đã xuống thế làm người để là “Đường, Sự Thật và Sự
Sống” cho con người được hạnh phúc viên mãn, vì Thiên Chúa yêu loài người và muốn
cứu loài người khỏi cuộc sống bất hạnh vì lầm lạc, thiếu sự thật, và phải chết.
Vì
thế, ở với Đức Giêsu và trong Đức Giêsu, chúng ta có tất cả để được hạnh phúc với
Thiên Chúa và trong Thiên Chúa, hạnh phúc mà chỉ một mình Đức Giêsu, Thiên Chúa
Tình Yêu, Đấng là Đường, Sự Thật và Sự Sống mới mang lại được.
Xin
cho mỗi người trong mọi hoàn cảnh, dù bi đát, nhiêu khê, bất ổn đến đâu cũng vẫn
một lòng trông cậy, tín thác và bám chặt vào Đức Giêsu, Đấng đem đến cho nhân loại Bình An trên Đường Tình Yêu, Niềm
Vui trong Chân Lý và Hạnh Phúc được sống tràn đầy hôm nay và dồi dào trong vĩnh
cửu, đời đời.
Jorathe
Nắng Tím