Pages - Menu

Chủ Nhật, 31 tháng 5, 2020

EM BÉ ĐANG LỚN


Em bé đã có mặt. Một con người mới. Một sự sống mới. Ba mẹ vui. Cả nhà mừng. Thế giới chào đón thành viên mới.
Em sẽ bắt đầu hành trình vào đời bằng khám phá. Ngay từ tuần đầu, ngũ quan của em bắt đầu hối hả làm việc: Em bắt đầu nghe với thính giác, nhìn với thị giác, ngửi với khứu giác, biết muì vị khi bú sữa với vị giác và cảm được êm ái của bàn tay mẹ với xúc giác. Thực ra, ngay trong lòng mẹ ở vào tuần thứ 16, em đã thấy, đã nghe, đã ngửi, đã biết vị ngọt, mặn và đã cảm được hạnh phúc khi ba âu yếm xoa đều trên bụng mẹ. Nhờ ngũ quan, em khám phá thế giới bên ngoài; đồng thời khám phá chính bản thân em.
Em khám phá cha mẹ là những người gần em nhất, rồi anh chị em trong nhà. Lúc đầu còn hỗn mang và em cười với mọi người, nhưng chỉ ba tháng sau, em không cười với người lạ, nhưng phản đối gặp gỡ họ bằng cách khóc thét lên. Em tiến từng buớc và biến đổi từng ngày. Mẹ vui lắm khi thấy em dài thêm được vài phân, và nặng hơn được một tí. Ba cười sung sướng khi em bắt đầu toe toét mỗi lần ba  ghé chơi “ú oà”, và gọi tên em.
Khoảng  tháng thứ bẩy, em bắt đầu bộc lộ cá tính qua tương quan. Thích ai em cười tươi rói. Bực ai, em hét inh ỏi. Em biết sợ và co mình trước người lạ mà em hình dung như đang muốn bắt cóc, tấn công em. Những liên đới giữa em và mẹ, cha, anh, chị dần dần được thành hình.
Công việc của em lúc này là khám phá thế gìới bên ngoài. Em cố thu nhận mọi hình ảnh chạy qua trước mắt, vui vẻ thâu nhận rồi  sàng lọc sau đó. Em học tên từng đồ vật, nhận diện từng người và chú ý từng sự kiện quanh em.   
Càng lớn, em càng đẹp, và khôn. Khôn nhất là khi nghe gọi tên, em ngẩng đầu, mở mắt. Ba mẹ cho em tên để gọi. Tên để gọi riêng em vì tên là của em. Tên em mang một ý nghiã, một kỷ niệm, một ước mơ, một kỳ vọng nào đó của cha mẹ và gia đình. Tên em cưu mang những gì đẹp, thánh thiện, may mắn, thành công và là một lời chúc tuyệt hảo cha mẹ và gia đình dành cho riêng em.  Các anh chị trong nhà không là em, nên không mang cùng tên em. Nếu có ai đó ở ngoài gia đình trùng tên, thì cũng chỉ là ngẫu nhiên trùng hợp một phần, nhưng không bao giờ là “tên em” toàn phần. Em có tên như có một thẻ căn cước và mọi người nhận ra em là em, không lầm em với bất cứ người nào khác. Tên em khẳng định em là duy nhất; chẳng thế khi gọi tên em, không ai đã phản ứng, trả lời, ngoài một mình em lắc lư cái đầu, lí lắc nhỏen miệng cười. Tên cũng là tấm danh thiếp của riêng em. Qua danh thiếp này, em tự giới thiệu mình với mọi người và với cuộc đời. Nhờ có tên, thế giới loài người gặp được và trân trọng em; bởi không có tên, rất có thể người ta gán cho em một con số nào đó như trong các trại tập trung, nhà tù. Tên cũng xác định sự có mặt sống động của em giữa cộng đồng nhân loại. Nhờ có tên, mọi việc làm, công trình của em đều mang một giá trị riêng và một trách nhiệm có đóng dấu cá nhân em. Qủa thực, ba mẹ đã chu đáo chuẩn bị tất cả cho em và tên em là lựa chọn quan trọng nhất.
Sở dĩ phải nhấn mạnh đến tên là vì tên em sẽ định vị chỗ đứng của em trong mọi tương quan. Nếu không có tên, em không biết mình là ai, sinh ngày nào, con ai, em của những anh chị nào, gốc gác làng mạc ở đâu. Nếu không có tên, em sẽ không gọi đúng tên của bất cứ một đối tượng nào xuất hiện trước mặt em. Không có tên, công việc khám phá thế giới bên ngoài của em cũng sẽ không thể thực hiện, vì để nhận thức, chủ thể là em phải được định nghiã, định vị.
Thế rồi đến một ngưỡng tuổi, em quay trở về với chính mình, trở vào nội tâm để đặt vấn đề tư duy. Được bốn tuổi, em bắt đầu làm triết gia và thỉnh thoảng bị mẹ bắt gặp ngậm ngón tay “trầm tư mặc tưởng”. Trông em chẳng khác gì Socrate, Platon, những đại triết gia của nhân loại.
Vào ngưỡng năm tuổi, em cho rằng người ta suy nghĩ bằng miệng, nhưng  liền sau đó, em bác bỏ nhận định  này và qủa quyết người ta suy nghĩ bằng đầu.
Năm 7 tuổi, em đã đủ khả năng sàng lọc thực thể nhận được bên ngoài để tinh lọc  thành tư tưởng; nói cách khác, em bắt đầu có những quan niệm về thế giới tinh thần và ý niệm siêu hình bắt đầu bàng bạc xuất hiện.
Như thế, sinh hoạt tri thức của em có mặt rất sớm, sớm hơn nhiều người đã lầm tưởng. Người lớn tuy thương con nít nhưng hay coi thường khả năng “tiềm tàng và đột khởi” của các em, và em cũng rơi vào trường hợp bị “coi thường” này. Người lớn đâu có biết rằng: ngay trong bụng mẹ, em đã tư duy như một con người toàn phần, đích thực. Bằng chứng là em đã phân biệt được tình cảm vui - buồn của cha mẹ mỗi khi cha mẹ tiếp xúc với em qua những cử động diễn tả tình cảm của đầu, mình và chân tay.
Là một thành viên của gia đình, em  hoà nhập, thích nghi đời sống gia đình bằng có mặt tìch cực trong mọi biến cố vui buồn. Em biết khóc khi mẹ đau, biết vui khi ba về  trên tay đầy quà. Những lần ba mẹ to tiếng xích mích, em rút vào phòng và ngậm ngùi khóc. Đời sống tình cảm của em lớn dần với sinh hoạt tình cảm của mọi người trong nhà. Và em học cách ứng xử trước những tình cảm đó. Chính vì thế, ảnh hưởng của cha mẹ, anh chị em có tầm quan trọng không thể chối cãi trên nhân cách và  tính tình của em. 
Em học được nhiều chuyện, nhiều điều hay có dở có trong gia đình, tuy phán đoán của em còn non nớt. Em biết thế nào là tốt, thế nào là xấu tuy chưa đủ khả năng chi tiết hóa và phân tích hành động. Có nhiều chuyện ba mẹ tưởng em không biết, không thấy, không nghe… nhưng không ai ngờ tất cả đã lọt vào mắt em, chạy vào tai em.
Thời gian trôi, em lớn hơn và muốn độc lập. Em thích thỉnh thoảng được ở một mình trong phòng với em Gấu nhồi bông mà không bị mọi người bao vây, hỏi han. Em cũng thích được mẹ thả em chơi tự do một mình, đừng ẵm bế em suốt ngày. Em cũng thích tự mình ăn, không muốn mẹ vất vả chạy theo đút từng muỗm.
Tóm lại, em đã đi vào lịch sử của thế giới, lịch sử của gia đình và đang cùng mọi người đi về một mục đích đời người. Mục đích đó là Hạnh Phúc. Vì hạnh phúc mà em có mặt ở đây. Vì hạnh phúc mà em hiện diện lúc này bên cạnh mọi nguời. Hạnh phúc là đích tới em nhắm, là động cơ thúc đẩy em đi. Cha mẹ và người lớn chắc cũng như em cùng hướng về mục đích đó. Có những non nớt, vụng dại em chưa  tự mình vượt qua được nên em cần mọi người. Có những việc em chưa làm được nên dựa vào mọi người. Và nhiều chuyện em chưa hiểu  nên học với mọi người. Vấn đề là mọi người có sẵn lòng đồng hành mà không bao sân hay bước thay em; nâng đỡ mà không ẵm mãi trên tay; dìu dắt mà không độc quyền, áp đặt; hướng dẫn mà không tước đọat tự do, yêu thương mà không đúc khuôn biến em thành phó bản…Và như thế, em sẽ được lớn lên từng ngày cho hạnh phúc của đời em.   

TẠI SAO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO ĐI THEO GIÁO PHÁI? (1)

VÌ KHÔNG NẮM VỮNG GIÁO LÝ ĐỨC TIN 
Thời gian đầu gặp gỡ, tôi luôn mời các em chia sẻ trước, và rất vui được lắng nghe các em tâm sự hàng nửa ngày, có khi suốt hai ngày liền, trừ giờ ăn, giờ ngủ. Các em đây là những bạn trẻ đã bỏ Giáo Hội để gia nhập vào một giáo phái nào đó. Và điều làm tôi ngạc nhiên hơn cả, chính là niềm hăng say “thuyết phục người đối diện” của các em.
Các em đầy nhiệt huyết, nhiệt tâm và những điều các em chia sẻ đều nói lên lòng chân thành, thiện tâm thiện chí và hoàn toàn không vẩn đục những mưu mô do ích kỷ, tham vọng, nhưng qủang đại, trong sáng, hồn nhiên.
Các em nói những gì các em nghe được từ bên giáo phái, những “mặc khải mới” mà các em đắc ý “tâm phục khẩu phục”, những so sánh cụ thể, hấp dẫn mà phần sai, phần lỗi luôn  thuộc về phiá công giáo, những phản biện nghe qua rất ăn khớp, hợp lý, hợp tình, nhưng thực ra chỉ là “trò chơi chữ” được các em khẳng định, qủa quyết như đinh đóng cột.
Thú thực, sau những ngày kiên nhẫn lắng nghe, tôi phải đau buồn nhận rằng trình độ giáo lý công giáo của các em rất yếu kém, kém đến nỗi không đủ khả năng để phân định ngay cả những chuyện nhỏ, yếu đến độ chỉ đủ khả năng gật gù đồng ý, chấp thuận bất cứ điều gì mà một người chỉ cần ở mức độ bình thường, sơ đẳng “dẫn dắt”.
Sau đây là những điểm yếu điển hình thường gặp ở các em đã bỏ Giáo Hội đi theo các giáo phái:
1.   Không định hình được ba nhân đức đối thần:
Đức tin, đức mến, đức trông cậy là ba nhân đức có Thiên Chúa là đối tượng thường được các em hiểu như những đức tính nhân bản, nên giá trị siêu nhiên của ba nhân đức này không được nhìn nhận xứng đáng, mà hậu qủa tai hại là phần của Thiên Chúa không được nhắc đến, trong khi ba nhân đức đối thần này được khởi đầu từ Ơn của Thiên Chúa để con người có thể Tin, Yêu Mến và Hy Vọng ở Ngài. Nói cách khác, nếu không có Ơn Chúa, người tín hữu không thể tự mình tin, yêu, trông cậy ở Thiên Chúa, dù có phần đóng góp tích cực về phía con người.
Những lời cầu nguyện của các môn đệ với Đức Giêsu: “Xin  thêm đức tin cho chúng con” (Lc 17,5), “Xin Thầy dậy chúng con cầu nguyện” (Lc 11,1), “Lậy Thầy, chúng con chết mất!” (Mc 4,38) đã nói lên vai trò không thể thiếu của Ơn Chúa trong đức tin, đức mến, đức trông cậy của người Kitô hữu.
Vì không nắm vững nền tảng siêu nhiên, mà con em của chúng ta đã “đánh đồng » đức tin của mình với niềm tin khoa học, đức ái với tình yêu đời thường, và đức trông cậy với niềm hy vọng như người ta hy vọng trúng số đề, lô tô, sổ xố. Và vì không được đặt trên nền tảng siêu nhiên, ba nhân đức đối thần không còn hướng về Thiên Chúa, không còn bám chặt, ăn rễ sâu vào Thiên Chúa, nhưng hời hợt, chênh vênh, thay đổi, di dời  bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu. 
2.   Không phân biệt được đức tin công giáo và các đức tin khác:
Khởi đi từ tình trạng không định hình được ba nhân đức đối thần, như Giáo lý công giáo dậy, người trẻ vấp ngã liền sau đó ở chính đức tin công giáo của mình, khi lẫn lộn đức tin công giáo với “các đức tin” vào thiên chúa của các tôn giáo, giáo phái khác.
Đức tin công giáo là đức tin của thánh tông đồ trưởng Phêrô khi ngài tuyên xưng trước mặt Đức Giêsu “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, và lời tuyên xưng đã được Đức Giêsu chứng thực: “Này anh Simôn, con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 17,16-17). 
Đây là đức tin tông truyền, nghiã là đức tin từ các thánh Tông Đồ, môn đệ trực tiếp của Đức Giêsu được gìn giữ tinh tuyền, trọn vẹn và truyền cho chúng ta, để rồi tiếp tục từ thế hệ này đến thế hệ kia, từ đời này sang đời nọ cho đến tận thế. Đây chính là đức tin các Tông Đồ đã vào tin Đức Giêsu, Đấng đã sống với các vị, đã yêu thương, dậy dỗ, căn dặn các vị, và chính các vị đã thấy tận mắt những phép lạ Ngài làm, đã nghe tận tai lời Ngài giảng dậy, đã đích thân chứng kiến những ngày tang thương khổ hình và tử nạn của Ngài, nhất là đã được gặp gỡ, chạm vào thân xác phục sinh của Ngài sau khi Ngài từ cõi chết sống lại. Cũng chính các vị được Đức Giêsu hứa ban Thánh Thần, và được sai đi loan báo Tin Mừng: Thiên Chúa yêu thương và cứu độ loài người.
Vì thế, đức tin công giáo là đức tin được bắt nguồn từ đức tin của thánh Phêrô, tông đồ trưởng  đã nhân danh Nhóm Mười Hai tuyên xưng, nên đức tin ấy cụ thể và sống động: tin vào Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người; đức tin ấy có thực: tin vào Đức Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa có mặt trong lịch sử nhân loại: đã sinh ra, sống, chết và sống lại ở một nơi và một thời điểm chính xác, rõ rệt; đức tin ấy có nền tảng siêu nhiên vì là mặc khải của Đức Giêsu Thiên Chúa; đức tin ấy được thể hiện trong cuộc sống của những con người đã “bỏ mọi sự mà đi theo Ngài”; đức tin ấy được đảm bảo vững chắc bởi Lời Hứa của Đức Giêsu Thiên Chúa, và được củng cố qua các phép lạ do chính Ngài làm. 
Do đó, đức tin công giáo không giống các đức tin khác, và không thể trộn lẫn với các đức tin khác, khi các đức tin này tin vào những thiên chúa mông lung, những thiên chúa chung chung, tổng qúat với những thuộc tính cố hữu dành cho Chúa Tể trời đất như toàn năng, thông biết mọi sự, thưởng phạt công minh. Các đức tin ấy tin những thiên chúa xa xôi trên trời, và  không xuống thế “làm người” như Ngôi Lời nhập thế; tin những thiên chúa không hiện diện cụ thể và sống động như con người  trong chính cuộc sống của con người như Đức Giêsu, Thiên Chúa nhập thể của Kitô giáo.   
Vì lý do nền tảng đó mà giữa “Thiên Chúa làm người” của người Kitô hữu hoàn toàn xa lạ với các thiên chúa của các tôn giáo, giáo phái khác. Sự khác biệt một trời một vực này không cho phép chúng ta “đánh lận con đen, hoặc đánh bùn sang ao” khi dễ dãi coi thiên chúa nào cũng giống thiên chúa nào, và đức tin nào cũng đồng loại, đồng chủng, đồng thứ hạng như nhau.  
3.   Kiến thức non nớt về lịch sử Cứu Độ:
Thiếu kiến thức giáo lý về lịch sử Cứu Độ khởi đi từ  tổ phụ Ápraham của Cựu Ước, bạn trẻ không thể hiểu được đường lối sư phạm tuyệt vời của Thiên Chúa trong công trình cứu chuộc nhân loại, và càng không thể nhận ra sứ vụ cứu thế của Đức Giêsu khi xuống thế làm người và chết để chuộc tội con người.
Những thiếu sót kiến thức về lịch sử dân Thiên Chúa trong Cựu Ước rất khó để người trẻ chấp nhận mầu nhiệm Thiên Chúa làm người trong Tân Ước, bởi  mầu nhiệm ấy đã được chuẩn bị chu đáo, được báo trước qua các ngôn sứ từ bao nhiêu đời trước, và tất cả đều quy hướng vào Đức Giêsu, trung tâm của Giao Ước giữa Thiên Chúa và con người.
Tình trạng thiếu sót kiến thức về lịch sử cứu độ ấy cũng đặt người trẻ vào những bế tắc khó vượt qua khi rơi vào những đoạn kinh thánh xem như mâu thuẫn, nghịch lý, ngược nghiã, chưa kể những trình thuật mang tính vô luân, bạo lực, mà người đọc cần một trình độ và khả năng tương đối để có thể nắm bắt những sứ điệp mà Kinh Thánh muốn chuyển tải, hơn là tìm tòi nghiã của từng chữ, ý của từng câu biệt lập, tách rời khỏi ngữ cảnh Tin Mừng.  
4.    Không nắm vững giáo lý căn bản về Giáo Hội:
Giáo Hội là gai nhọn nhức nhối hơn cả, vì Giáo Hội là nhà từ đó người trẻ bỏ đi, là mái ấm người trẻ bỏ lại sau lưng đi theo giáo phái, nên Giáo Hội là vấn đề đầu tiên được nêu ra, bị mổ xẻ khi người trẻ có ý định từ bỏ.
Một ghi nhận không thể chối cãi, đó là nguyên nhân đầu tiên đưa đến ý nghĩ bỏ đạo, theo giáo phái ở người trẻ hầu hết đều xuất phát từ những con người của Giáo Hội, hay từ cơ chế tổ chức của Giáo Hội, bởi đức tin được thể hiện nơi Giáo Hội, cũng là nơi phát sinh những vấn đề của con người…
Vì tương quan giữa Đức Giêsu và Giáo Hội là tương quan của phu quân và hiền thê, một tương quan bất khả phân ly và trường tồn bền vững, như một Thân Thể, nên ở đâu có Đức Giêsu ở đó có Giáo Hội, và người ta không thể tách Giáo Hội khỏi Đức Giêsu, cũng như không thể cách ly Đức Giêsu khỏi Giáo Hội của Ngài.
Nhưng tương quan ấy không bảo đảm sự hoàn hảo, thánh thiện của những con người thuộc Giáo Hội, bởi những gương xấu, việc xấu mãi mãi có mặt nơi những con người thuộc Giáo Hội, những lỗi lầm, tội lụy không buông tha những người có trách nhiệm trong Giáo Hội, những sai trái, lạm dụng, bất xứng vẫn  tồn tại ở những con người nắm giữ cơ cấu quyền bính trong Giáo Hội, những tính hư tật xấu như kiêu căng, cửa quyền, tham lạm, vô cảm, độc ác vẫn là những căn bệnh khó chữa nơi những người mang trọng trách quản trị Giáo Hội. Chưa kể tương quan ấy còn có mục đích cưu mang tội nhân, chứa chấp những con người bất toàn, bất xứng, vì là Nhà của Thiên Chúa cho con người yếu đuối, nơi náu ẩn của người có tội đi tìm ơn thương xót để được cứu sống, chữa lành.
Cũng chính vì Giáo Hội là đoàn thể những người đi theo Đức Giêsu gồm đủ mọi sắc dân, chủng tộc, giai cấp, địa vị, trình độ, và  mọi thành phần tốt xấu, sang hèn, hiền nhân, ác nhân, thánh nhân, tội đồ, nên đánh giá Giáo Hội qua những con người bất xứng, bất toàn của Giáo Hội, mà bỏ quên Đức Giêsu là một sai lầm nguy hiểm. Nói như thế không có nghiã đoàn thể những người đi theo Đức Giêsu không được mời gọi và thúc đẩy trở nên tốt hơn mỗi ngày theo gương Đức Giêsu. Trái lại, tất cả được tháp nhập vào Thân Thể có Đức Giêsu là Đầu để đuợc đổi mới, và trở nên thánh thiện như Cha trên trời là Đấng thánh thiện. Vấn đề là khi đồng hoá những con người yếu đuối trong Giáo Hội là Giáo Hội để khi bất mãn trước những bất công, bất chính của những con người bất toàn, bất hảo này, người ta chọn giải pháp “không giải quyết gì” là bất cần, bất trung, bất tín nhiệm, bất tuân phục Giáo Hội. Và đó là tình trạng của nhiều người trẻ công giáo đang trượt dài trên những cám dỗ bỏ đạo, đi theo các giáo phái.
5.   Không nhận ra đòi hỏi, giá trị và ý nghiã của Giáo Hội tông truyền:
Đức Giêsu không chỉ ban cho các môn đệ Tin Mừng và sai các vị đi khắp nơi loan báo Tin Mừng Cứu Độ cho muôn dân, mà còn ban Chúa Thánh Thần cho họ để họ thi hành sứ vụ được trao phó: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi. Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn” (Ga 16,12-13).
Điều này có nghiã: Giáo Hội được Chúa Thánh Thần hướng dẫn để tiếp tục làm cho chân lý được Đức Giêsu mặc khải trở nên trọn vẹn bằng giải thích, cắt nghiã, qủang diễn sao cho thích hợp, hầu đem lại nhiều ơn ích thiêng liêng cho dân Chúa. Cũng vì có Chúa Thánh Thần hiện diện, Giáo Hội xác tín sứ mạng gìn giữ kho tàng chân lý được Đức Giêsu ủy thác và sứ vụ làm chứng Chân Lý ấy: “Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy. Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu” (Ga 15,26-27).
Như thế, tông truyền có nghiã  được xây dựng trên nền tảng của các tông đồ, và các giám mục có trách nhiệm thừa kế để tiếp nối công trình của các thánh tông đồ trong việc rao giảng, dậy dỗ, hướng dẫn, qủan trị, chăn dắt dân Chúa là Giáo Hội, nên ngoài Kinh Thánh là nguồn mặc khải, ở đó Giáo Hội kín múc chân lý đức tin, chúng ta còn được được thừa hưởng  giáo huấn  của các tông đồ, và các đấng kế vị. Đó là lý do trong kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng: “Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền”, bởi nếu chỉ nhận chân lý từ Kinh Thánh, mà chối bỏ chân lý tông truyền, chúng ta sẽ chối bỏ luôn cả nền tảng tông đồ, trên đó Đức Giêsu xây dựng Giáo Hội của Ngài, khi nói với tông đồ trưởng Phêrô trước mặt toàn thể nhóm Mười Hai: “Phêrô, con là Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy (Mt 16,18).  
Trên đây là năm mấu chốt của giáo lý mà người trẻ công giáo cần được ăn rễ sâu, để không bị chao đảo trước những giáo thuyết sai lạc. Bởi không đào sâu chân lý “đức tin của Phêrô”, chúng ta sẽ lầm tưởng “đức tin nào cũng giống nhau, đức tin nào cũng là niềm tin ở Thiên Chúa”; bởi không nhận ra khác biệt giữa đức tin của Phêrô và các đức tin khác, chúng ta sẽ lầm tưởng Đức Giêsu, “Thiên Chúa làm người” của Kitô giáo không có gì khác  biệt các thiên chúa của các tôn giáo khác; bởi không thấu đáo giáo lý về Giáo Hội như Hiền Thê, và Thân thể của Đức Giêsu, chúng ta sẽ chấp nhận dễ dàng “tin Chúa, nhưng không theo đạo”, “làm việc trực tiếp” với Chúa, mà không cần vâng phục, cộng tác, hiệp thông với Giáo Hội của Ngài; bởi không nắm vững giáo lý về Giáo Hội tông truyền, chúng ta sẽ dễ có thái độ bất tuân ccá giáo huấn của đấng bản quyền; bởi không hiểu biết  lịch sử dân Thiên Chúa, chúng ta sẽ không thể hiểu  sự liên tục “quan phòng” của lịch sử Cứu Độ khởi đi từ Cựu Ước, và rất khó nhận ra công trình nhập thể, nhập thế của Đức Giêsu đã được chuẩn bị rất kỹ lưỡng từ nhiều ngàn năm trước  qua dòng lịch sử thăng trầm nhưng luôn được yêu thương, bảo vệ của dân riêng Thiên Chúa.
Và tất cả những lỗ hổng, kẽ hở, vết nứt “giáo lý” ấy sẽ là cơ hội tốt cho các giáo phái ngày càng nổi lên như nấm đang ra sức đánh gục “đức tin công giáo” của không ít thanh thiếu niên trong các xứ đạo, một “sự thật nhức nhối” không thể chối cãi.
Jorathe Nắng Tím