Pages - Menu

Thứ Ba, 27 tháng 10, 2020

VẼ NGƯỜI

 


Thế giới càng văn minh, người ta càng thích vẽ : nghệ thuật trang điểm là vẽ cho đẹp mắt mũi, môi miệng ; nghệ thuật xâm mình là vẽ đủ thứ mình thích, mình ước mơ trên da thịt ; nghệ thuật hóa trang là vẽ thế nào cho thiên hạ không còn nhận ra mình. Và càng ngày người ta càng say mê vẽ vời trên mình, để rồi quen tay tô vẽ đủ thứ hình ảnh, mầu sắc trên người khác.

Nếu vẽ trên mình nhằm mục đích che dấu những vết nhăn, vết nứt, vết nhám, vết lồi lõm trên thân thể, thì vẽ trên người khác lại thường có khuynh hướng làm xấu đi những nét đẹp sẵn có trên thân xác tha nhân ; nếu vẽ trên mặt mũi mình với ước muốn làm đẹp mình hơn, thì vẽ trên mặt thiên hạ lại mang ý đồ “bôi tro trát trấu”, làm xấu đi dung nhan vốn không đến nỗi của người chung quanh ; nếu vẽ mình với sắc mầu rực rỡ, tươi thắm, thì vẽ người khác luôn được dùng gam mầu tối đen, ảm đạm, khô héo, tàn úa ; nếu bút mầu dùng để vẽ mình nhẹ như tơ, mềm như nhung, thì cây cọ dùng để vẽ mặt người lại  ngắn dài tua tủa những gai nhọn như bàn chông sắt ; nếu hình ảnh được dùng để vẽ mình thơ mộng, quyến rũ, thì  khi vẽ người sẽ biến thành thô kệch, bỉ ổi,  xấu xa, kinh dị ; nếu nét vẽ thanh tao, trang nhã được dành để vẽ mình, thì bợm trợm, lưu manh, gian ác, bần tiện, điếm đàng sẽ được dành để vẽ người.

Qủa thực, chúng ta không còn nhiều may mắn để biết được sự thật trong xã hội ngập tràn gian dối này : không biết người khác thật, giả đã dành, nhưng không biết cả  mặt mình, thân xác mình, lịch sử  đời mình đã bị thiên hạ vẽ vời ra sao, tô vẽ như thế nào…, nên có khi mình “dốt đặc cán mai”, khờ khạo như cục đất khi cần lại được thiên hạ vẽ thành tên phù thủy quyền năng, gian ngoa, thủ đọan ; có khi chỉ biết dăm ba chữ để kiếm cơm qua ngày, nhưng bất chợt được thiên hạ cần đến đã cho vào sổ phong thần, khi vẽ nên một nhân vật cực kỳ đáng ngại, một siêu  lừa đảo thượng thặng, vô đối…    

Vì thế, sống trong một xã hội mà ai cũng nhăm nhăm cây cọ với thùng sơn, và lấy làm thích thú, hả dạ khi bôi được lên mặt người khác, lên cuộc đời người chung quanh những hình ảnh “rác rưới” dơ bẩn mình muốn, và những ước muốn thấp hèn của bản năng ích kỷ, thì qủa thực chúng ta đang phải sống một cuộc sống không được bình yên, trong một thế giới loài người mất dần “nhân tính”.

Mất dần nhân tính vì người ta không còn lương tri khi tự cho phép mình lấy đi dung mạo “con người” của người khác, bằng biến họ thành dị nhân, ma quái, ác qủy dưới cây cọ phóng đại gian dối ; mất dần nhân tính vì người ta không còn lương tâm, khi cho mình cái quyền đúc tạc, vẽ vời, tạo khuôn, tạo hình cuộc đời người khác, bằng bôi trét nham nhở, trắng trợn bóp méo hình ảnh “con người” của tha nhân ; mất dần nhân tính vì người ta không còn lương thiện để ngượng ngùng khi thêm răng nanh, sừng nhọn, móng vuốt trên con người của người khác ; và đến một lúc nhân tính sẽ không còn khi người ta làm tất cả công việc họa hình, tô vẽ người khác với ý đồ làm nhục, vu khống, chụp mũ, hãm hại, tiêu diệt người khác, cho thoả cơn say ích kỷ hại nhân.

Trước tình trạng đáng ghê tởm “vẽ người” ngày càng rôm rả, ăn khách, được mùa, chúng ta phải làm gì?

Thưa chúng ta chẳng cần quan tâm, vì những hình ảnh xấu xa người khác vẽ lên ta cũng chỉ là đống rác bẩn thỉu của chính con người họ, mà những gì là cặn bã, rác rưới tự nó sẽ bị tiêu hủy, mà chẳng cần chúng ta nhúng tay nổi lửa đốt ; những nét vẽ nham nhở, thô kệch, châm biếm họ vẽ trên người chúng ta cũng chỉ là những tính cách đặc trưng, đặc thù của chính con người họ, nó sẽ trở về với họ, mà không thể ở lâu với ta, vì không có đất sống, cũng không có chỗ trụ lại trên mình chúng ta ; những râu ria, nanh vuốt, đuôi sừng  họ cắm trên thân thể chúng ta cũng chỉ là những phần cốt yếu của chính con người họ, nên dù có xả cảng đi đâu, có cắt bỏ rồi  ném thật xa qua nhà người khác, nó cũng có chân, có cánh mò về với chủ nhân của nó ; những nét vẽ “kinh tởm, kinh hãi, kinh khủng, kinh hoàng, kinh khiếp, kinh dị, kinh thiên động địạ” họ gán cho chúng ta thực chất chỉ là những gì họ đã lâu ngày cưu mang, nuôi lớn, chúng đã mọc sâu, ăn rễ chằng chịt trong tâm hồn họ, nên có cố bứng đi, nó cũng không chịu rời con người, ở đó chúng  đã chiếm cứ, thao túng.

Không quan tâm đồng nghĩa với không chấp những việc của những kẻ “chưa lớn nổi thành người”, vì trí khôn qúa chật hẹp, và trái tim “ao tù” thiên thu ; không quan tâm còn đồng nghiã với tha thứ, bỏ qua cho kẻ kiếm chuyện “vẽ người” , vì qủa thực họ không đủ khả năng để biết và trách nhiệm trên những gì họ vẽ vời, bôi bác trên mặt và cuộc đời người khác.

Và cuối cùng, một lý do mạnh khác để chúng ta không cần quan tâm đến những người chuyên lo “vẽ người” với dã tâm, ác ý, đó là ngay cả Thưọng Đế là Đấng vô hình, vô tượng, mà con người không hề biết, không hề gặp, không hề thấy, không hề nghe bao giờ cũng còn bị  những kẻ “không tâm, không tầm”, phản phúc, vô ơn vẽ vời, đúc tạc thành hình con vật, như dân Do Thái trong sa mạc, trên đường về Đất Hứa năm xưa đã đúc tượng bò vàng và lập bàn thờ bái lậy bò vàng, như thần đã đưa họ ra khỏi đất Ai Cập (x. Xh 32,3-5), huống hồ chúng ta là “con người”, nên chuyện bị “người khác” vẽ vời, thêu dệt, đúc tạc hình tượng theo “tối kiến” của họ với mục tiêu bôi nhọ hình ảnh và làm ô uế cuộc đời chúng ta ắt là điều khó tránh khỏi, nên phải được coi là chuyện “tàm phào, tào lao”, không đáng chúng ta quan tâm.

Ước gì thế giới bớt dần đạo quân “vẽ người” để mọi người được sống những ngày bình yên với sự thật của chính mình.

Jorathe Nắng Tím    

   

 

 

   

 

NIỀM AN ỦI

 

Lễ cầu cho các Linh Hồn, Năm A





Thật là nỗi đau buồn không kể xiết, khi mất ông bà, cha mẹ, anh chị em, bạn hữu trong năm 2020. Đau buồn vì ở xa không về được, mà có ở kề bên cũng không được phép tập trung đông người, nên không lo liệu chu đáo hậu sự cho các vị, cũng  không được tổ chức lễ an táng như lòng mong ước. Tang quyến còn đau buồn khi thấy người thân ra đi cô đơn, nhà thờ trống trải, những ngày quàn xác ít người thăm viếng, cầu nguyện, và người đưa tiễn ra mộ phần thưa thớt, vội vã đến tang thương ngậm ngùi…

Qủa thực, chết buồn lắm, nhưng chết trong mùa Covid còn buồn hơn gấp bội. Nhiều bạn tôi mất cha, mất mẹ trong mùa dịch đã chỉ biết ôm mặt nức nở khóc ở quê người, vì không một phương tiện cho phép những người con đau khổ  được về quê hương chịu tang cha mẹ.

Hôm nay Giáo Hội nhớ đến những người con đã ra đi cũng là dịp Giáo Hội an ủi những người con còn ở lại đang buồn thương, nhung nhớ, luyến tiếc người thân đã qua đời bằng niềm hy vọng vào sự sống lại và tình yêu trung tín của Đức Giêsu :

1.   Đức Giêsu phục sinh là nền tảng của đức tin :

Chính Đức Giêsu đã  xác quyết ở Bêtania ngay trước khi gọi bạn Ladarô đã chôn được bốn ngày ra khỏi mồ : “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,25). Thánh Phaolô quảng diễn chân lý này trong thư gửi giáo đoàn Côrinthô : “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng. Nhưng không phải thế! Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại” (1 Cr 15,13.20).

2.   Đức Giêsu  muốn tất cả chúng ta được sống lại với Ngài như ý muốn của Chúa Cha :

Đức Giêsu khao khát mọi người được sống lại với Ngài khi nói với người Do Thái về “Bánh bởi trời : Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài, vì tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi. Mà ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6,37-39).

Như thế ý muốn đời đời của Chúa Cha là tất cả chúng ta được sống lại, vì chúng ta thuộc về Thiên Chúa, và ý muốn thánh thiện đó đã được Đức Giêsu thực hiện bằng chương trình cứu chuộc, để không ai phải chết đời đời, nhưng được sống lại với Đức Giêsu hầu hưởng vinh quang của Thiên Chúa hằng sống.

3.   Đức Giêsu muốn tất cả chúng ta ở với Ngài :

Trong lời cầu nguyện thánh hiến trước khi lên đường Thương Khó, Đức Giêsu đã thân thưa với Chúa Cha : “Lậy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành” (Ga 17,24).       

Khi yêu nhau, người ta không muốn và không thể xa nhau, nhưng muốn ở với nhau, ở trong nhau để được chung phần với nhau trong tất cả. Đức Giêsu muốn chúng ta ở với Ngài để chung hưởng vinh quang với Ngài trong tình yêu vô cùng của Cha Ngài. Ngài chia sẻ tất cả vinh quang, hạnh phúc của Ngài cho chúng ta, vì Ngài yêu chúng ta như Chúa Cha yêu thương Ngài. Chẳng thế mà Ngài chỉ ao ước : “Tất cả  nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta” (Ga 17,21).

Được Đức Giêsu bảo đảm sẽ được sống lại, được ở nơi Ngài ở, được hưởng niềm vui vinh quang Thiên Chúa của Ngài, nỗi buồn của chúng ta, những người đang sống khi nhớ đến thân nhân, ân nhân, bạn hữu, và mọi gười đã qua đời sẽ nguôi ngoai, vì tin tưởng ở lòng thương xót, bao dung vô bờ bến của Thiên Chúa, và ơn cứu độ vô giá, vô cùng của Đức Giêsu, Đấng “đến để phục vụ và hiến dâng  mạng sống làm giá chuộc muôn dân” (Mt 20,28). Chúng ta có cơ sở để hy vọng, một niềm hy vọng không phù phiếm, giả tạo, lừa dối, nhưng là hy vọng của đức tin : tin vào Thiên Chúa yêu thương loài người và không để một ai phải mất đi, nếu tin vào Ngài.

Chúng ta vui mừng trong niềm hy vọng khi tin những người thân yêu, quen biết đã ra đi sẽ được Chúa thương lau sạch nước mắt và mặc cho áo trắng tinh đã  giặt trong Máu của Con Thiên Chúa giầu lòng thương xót. Chúng ta tin lòng thương xót của Chúa vượt xa mọi yếu đuối, tội lụy và có sức xóa hết mọi tỳ vết để làm cho tất cả nên “trắng hơn tuyết”.

Sau cùng, trong sự hiệp thông của Hội Thánh, chúng ta tin vào tình yêu được chia sẻ giữa các chi thể của Thân Thể Giáo Hội, để công phúc của người này bù đắp những thiếu sót của người kia, lời cầu của nguời này kéo ơn phù trợ của Chúa xuống trên người nọ, vì tất  cả chúng ta chỉ là một Thân Thể có Đức Giêsu là Đầu.

Tháng Mười Một với thu buồn, lá vàng đổ! Sự sống nào ở thế gian rồi cũng phải bước qua ngưỡng cửa sự chết để đi vào sự sống đời đời. Xin Chúa cho chúng ta niềm hy vọng ở Đức Giêsu phục sinh, Đấng đến để chúng ta “được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10), vì chính Ngài đã phán : “Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù có chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11,25-26).

Jorathe Nắng Tím