Pages - Menu

Thứ Năm, 10 tháng 12, 2020

NGƯỜI KITÔ HỮU TRUYỀN GIÁO

 


Hình ảnh người môn đệ truyền giáo, cũng là người Kitô hữu truyền giáo đích thực và sống động mà chúng ta gặp được trong Tin Mừng của ngày lễ Giáng Sinh chính là những mục đồng ở Bêlem, trong đêm Chúa sinh ra đời.

Thánh Luca ghi lại rất rõ những gì đã xẩy ra với họ trong đêm hồng phúc ở  Bêlem : Họ là những người thức đêm canh giữ đàn vật. Bỗng sứ thần đứng bên họ, và vinh quang  của Chúa chiếu tỏa chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng sứ thần bảo họ : Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân : Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô, Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người : anh em sẽ thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ (Lc 2,8-12). Họ đã cùng nhau hối hả sang Bêlem. Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ… Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ (Lc 2,16.20).

Những biến cố dồn dập xẩy ra trong đêm Giáng Sinh với những người chăn chiên, chính  là trình tự có lớp lang  của hành trình trở thành người Kitô hữu truyền giáo :

1.   Người Kitô hữu truyền giáo là người lắng nghe và đáp trả tiếng gọi của Thiên Chúa :

Thiên Chúa gọi rất nhiều người, nhưng không nhiều người đã lắng nghe và đáp trả. Những người này đã không như những mục đồng ở Bêlem đã lắng nghe lời sứ thần và đáp trả bằng bảo nhau : Nào chúng ta sang Bêlem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết, và họ liền hối hả ra đi (Lc 2,15-16).

Bởi có tin lời sứ thần, là tiếng gọi của Thiên Chúa, họ mới hối hả ra đi, và có vội vã lên đường đi tìm, họ mới gặp một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ (Lc 2,12) như dấu chỉ mà sứ thần đã báo trước cho họ.

2.   Người Kitô hữu  truyền giáo là người nhận ra Thiên Chúa qua hình hài con người bé nhỏ, nghèo hèn, yếu đuối :

Nhận ra Thiên Chúa sẽ rất dễ trên thiên đàng, hay sẽ không qúa khó trong những thánh đuờng nguy nga, ở những buổi lễ hoành tráng, long trọng. Nhưng vô cùng khó nhận ra Ngài qua hình hài một trẻ sơ sinh, bọc tã, nằm trong máng cỏ, ở chuồng chiên lừa, giữa đêm khuya, với cha mẹ đơn sơ, nghèo nàn.

Mặc dù đã được sứ thần báo trước, và đã thấy xẩy ra đúng như dấu chỉ của sứ thần, nhưng chấp nhận một Thiên Chúa sinh ra làm người trong hình hài bé nhỏ, yếu đuối, hoàn cảnh cùng cực, túng quẫn, nghèo hèn như những gì thấy trước mắt là một thách đố vô cùng cam go của các mục đồng, vì vượt qúa sức tưởng tượng của họ.

Đây cũng là thách đố lớn của người Kitô hữu truyền giáo, bởi Thiên Chúa không luôn oai hùng, dũng mạnh, vinh quang, bách chiến bách thắng, nhưng thường ẩn mình sau dáng dấp tiều tụy, bước đi siêu vẹo, nước mắt nhục nhằn, thân xác bầm tím, sâu hoắm những vết thương của những con người bị đời nguyền rủa, lên án, khai trừ ; và kín đáo giấu mình trong thân phận hẩm hiu, bất hạnh của những con người bị khinh miệt, bạc đãi, bỏ rơi, tẩy chay, bóc lột, chà đạp, dầy xéo.    

3.   Người Kitô hữu truyền giáo là người lên đường sau khi đã gặp Đức Giêsu để làm chứng về Ngài, bằng kể lại những việc kỳ diệu Thiên Chúa đã làm.  

Tin Mừng ghi rõ : các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ (Lc 2,20).

Như họ đã hối hả  cùng nhau lên đường từ cánh đồng chăn giữ chiên cừu đến hang Bêlem để gặp Hài Nhi Giêsu, nay họ cũng vội vã lên đường trở về nơi họ đang sống, nơi họ đang làm việc, với cha mẹ, vợ con, anh chị em, hàng xóm láng diềng, người thân kẻ lạ chung quanh và công khai tôn vinh chúc tụng Thiên Chúa, và kể cho mọi người những điều họ đã nghe, đã thấy.

Họ đã kể lại và làm chứng trước mọi người về những gì đã xẩy ra từ giây phút sứ thần đánh thức họ, báo tin cho họ, đến khi họ được thấy tận mắt Hài Nhi mà họ nhận là Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ của họ và của toàn dân, vì tin vào lời sứ thần (x. Lc 2,11).

Thực vậy, người Kitô hữu từ giây phút đầu, từ khởi điểm của hành trình đi theo Đức Giêsu cho đến khi trở thành người Kitô hữu truyền giáo đích thực đã nhịp nhàng theo bước chân những người chăn chiên ở cánh đồng Bêlem năm xưa trong đêm Giáng Sinh, ở đó, cả mục đồng và người Kitô hữu đã cùng lắng nghe và đáp lại tiếng gọi đi gặp Đức Giêsu ; cả hai đã lên đường đi tìm Đức Giêsu, đã đón nhận mầu nhiệm Thiên Chúa làm người qua hình hài con người yếu đuối, bé nhỏ, nghèo hèn ; và sau khi đã có Đức Giêsu, cả hai đã lại lên đường vừa đi vừa tôn vinh ca ngợi Thiên Chúa và loan báo Tin Mừng Cứu Độ.

Sở dĩ không thể tách người Kitô hữu ra khỏi người loan báo Tin Mừng, nhưng gọi người Kitô hữu là Kitô hữu truyền giáo như tựa đề của bài chia sẻ, vì truyền giáo là căn tính làm nên người Kitô hữu, bởi nếu chỉ gặp Đức Giêsu, biết Đức Giêsu, tức có Đức Giêsu, mà không giới thiệu Đức Giêsu cho người khác cùng đến gặp, không kể lại và làm chứng cho mọi người những việc kỳ diệu Đức Giêsu đã làm, không loan báo sứ điệp cứu độ của Đức Giêsu cho người khác, thì danh xưng Kitô hữu sẽ trở thành hữu danh vô thực, vì không có người Kitô hữu không truyền giáo, không có người có Đức Kitô mà không làm chứng, loan báo, rao giảng Đức Kitô.

Qủa thực, Thiên Chúa đã rất khôn ngoan và quan phòng khi chọn những người chăn chiên dốt nát, nghèo hèn, bị xã hội và Giáo Hội thời bấy giờ xếp vào hạng ô uế làm những người Kitô hữu ở giờ đầu của lịch sử Nhập Thể, Cứu Chuộc, sau Đức Mẹ và thánh Giuse, để nói cho chúng ta biết :Thiên Chúa đặc biệt yêu thương những người bé nhỏ, như Đức Giêsu đã mặc khải qua lời cầu nguyện của Ngài với Chúa Cha : Lậy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lậy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha (Mt 11,25-26).

Bên cạnh là mặc khải về căn tính truyền giáo của người Kitô hữu, đó là người Kitô hữu có Chúa Giêsu để ban phát Chúa Giêsu, có Chúa Giêsu để làm cho Chúa Giêsu được biết và yêu mến, có Chúa Giêsu để làm cho mọi người trở thành môn đệ (Mt 28,19).   

Tóm lại, qua sứ điêp Giáng Sinh, chúng ta được Thiên Chúa dậy bảo : mỗi người Kitô hữu là một nhà truyền giáo, một môn đệ rao giảng Tin Mừng, và không ai được miễn trừ trách nhiệm và quyền lợi truyền giáo do đòi hỏi của căn tính Kitô hữu. Chân lý này còn nhắc chúng ta việc truyền giáo không là đặc lợi, đặc vụ, độc quyền của hàng giáo phẩm, giáo sĩ, tu sĩ, và những người có kiến thức thần học, nhưng là sứ vụ của tất cả mọi Kitô hữu, là trách nhiệm và quyền lợi của mỗi người  Kitô hữu, bởi Thiên Chúa dùng mỗi người một cách khác nhau để loan báo Tin Mừng, và điều Ngài cần ở mỗi người là tình yêu dành cho Ngài, là kinh nghiệm yêu thương, hiệp nhất với Đức Giêsu, là lòng quảng đại của trái tim người môn đệ đích thực luôn khao khát cho danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.

Ước gì Giáng Sinh năm nay, tất cả người Kitô hữu chúng ta được đồng hành với anh em mục đồng nghèo khó, chân chất, đơn sơ, hồn nhiên trong tĩnh lặng của cánh đồng Bêlem giữa đêm khuya thanh vắng đang hối hả cùng nhau đến gặp Chúa, và trên đường trở về, như người Kitô hữu truyền giáo được cùng họ tôn vinh Thiên Chúa và kể lại cho mọi người những kỳ công Thiên Chúa đã làm cho chính mình và nhân loại.

Jorathe Nắng Tím

MUÔN MẶT

 

Tội sợ người muôn mặt, và người khác cũng sợ cái muôn mặt của tôi. Thế ra chúng tôi đều sợ nhau, mà không ai nói cho ai biết.

Bởi nói cho nhau thế nào được, khi muôn mặt là bí quyết riêng của mỗi người, bí quyết để tồn tại trong xã hội nhiễu nhương, giả dối ; bởi tiết lộ thế nào được khi muôn mặt là kỹ năng được xem là có hiệu qủa trong xã hội lọc lừa, cạm bẫy ; bởi trao đổi với người khác thế nào được khi muôn mặt là nghệ thuật có đẳng cấp cho phép “thay hình đổi dạng” nhanh chóng và phù hợp với mọi nhu cầu, hoàn cảnh ; bởi chia sẻ kinh nghiệm thế nào được, khi xác xuất thành công tỷ lệ thuận với khả năng muôn mặt.

Qủa thực, chúng tôi muôn mặt đến độ chính chúng tôi không còn biết mình là ai, không còn nhận diện được mặt nào là mặt thật nguyên thủy của mình. Nếu thập thò quan lộ, chúng tôi có sẵn vô số bộ mặt trái ngược nhau : mặt nô bộc trung thành, mặt bầy tôi dễ bảo, mặt ngây ngô, sợ hãi luôn miệng thưa bẩm, xin chỉ bảo, hướng dẫn đối với quan trên, thủ trưởng ; nhưng với cấp dưới, thì mặt chúng tôi  đổi mầu hống hách, cửa quyền, kiêu căng, trịch thượng, giáo điều, lề luật. Nếu tanh tanh mùi chữ, thì đeo ngay mặt khoa bảng khinh khỉnh, mặt trí thức ngạo mạn, mặt lạnh lùng, vô cảm của kẻ có chữ trước những người dân lành, cả nể, dễ tin. Nếu xúng xính phẩm hàm, mũ mão, thì mặt trời cũng phải thua, mặt trăng cũng phải cúi đầu trước mặt cao ngạo, coi thường phàm nhân của chúng tôi.

Thôi thì đủ thứ mặt  ngắn dài, to nhỏ, vuông tròn, lồi lõm được chúng tôi sử dụng ; đủ loại mầu sắc xanh, đỏ, tím, vàng, lam, hường, đen, xám được bôi trét để ngụy trang, che giấu mặt thật ; đủ tính cách “hỉ, nổ, ái, ố” cho diện mạo phong phú, diệu kỳ.

Chúng tôi  cần tất cả để bảo đảm tốc độ đổi mặt, bởi để thành công, tùy người, tùy việc mà mặt tức tốc được thay đổi, vì mặt được dùng trước người nghèo, trước đám bần cùng, vô gia cư, vô địa táng hoàn toàn khác với mặt phải mang khi trình diện người giầu sang, kẻ có  thế lực, ảnh hưởng. Chúng tôi còn cần trơ trẽn ở cấp độ cao để có thể biến bộ mặt thiểu não van xin, khúm núm, qụy lụy, luồn cúi hèn hạ trước  những người chúng tôi đang cầu cạnh, thành diện mạo tự mãn, tự phụ, vô ơn, phản phúc trước những người ơn đã hết thời và nay không còn gì để chúng tôi khai thác, lợi dụng.  

Nhưng rồi muôn mặt cũng đến lúc phải trắng mặt, rơi mặt, lộ mặt, khi thiên hạ mệt mỏi tránh xa, khi chính chúng tôi cũng ngao ngán muốn từ bỏ, vì sau mỗi ngày sống muôn mặt, chúng tôi thấy mình nghèo đi nhân cách ; trước mỗi hành trình muôn mặt, hành trang hạnh phúc của chúng tôi lại nhẹ vơi đi ; và sau mỗi chuyến đầu tư muôn mặt, gia sản tinh thần hao hụt, giảm sút đến đáng lo ngại.   

Chợt một buổi chiều ở những cây số gần cuối đường đời, tiếng nói định mệnh thì thầm nhắc nhở : Mỗi người chỉ có một mặt, một khuôn mặt giống Đấng Tạo Dựng, một nét mặt mang hình ảnh Ngài, một sắc mặt phảng phất ánh sáng Tôn Nhan, nên đeo vào mình muôn mặt, đắp lên mặt nhiều mầu sắc sẽ chỉ là phủ nhận bản thân, khi chối từ sự thật làm nên mình, tránh né sự thật thuộc về mình, bức tử sự thật tạo nên những tương quan tốt đẹp với  người khác, và hủy diệt sự thật là điều kiện của hạnh phúc, bình an.

Ở trạm dừng chân cuối đường này, chúng tôi giật mình nhận ra đây là những cây số sau cùng của đường về, và thảng thốt, hốt hoảng vì qũy thời gian sống không còn bao nhiêu, nên ai nấy mạnh dạn nói cho nhau như lời giã biệt về câu chuyện buồn muôn mặt, nói với nhau như lời trăn trối về  qúa khứ dài bất hạnh vì đã trót mải mê một đời muôn mặt vô nghiã.

Hôm nay còn được đi nốt vài cây số cuối cùng, xin gửi lại những người đi sau tâm tình của lũ chúng tôi là những người đã vô phúc sống một đời dài muôn mặt, bằng liên tục đeo trên mình những mặt nạ “giả hình, giả nhân giả nghiã” rất ghê tởm, và khờ dại hủy hoại khuôn mặt nhân ái, nét mặt hiền lành, sắc mặt bao dung là hình ảnh sống động của Đấng Chủ Tạo rất yêu thương và giầu lòng thương xót đã ban cho loài người, để mọi người nhận ra nhau là anh em cùng một Cha trên trời, qua khuôn mặt mang nhiều nét giống Cha yêu thương, nhân hậu.  

Jorathe Nắng Tím