Nếu nhiều hôn nhân đổ vỡ, vì vợ chồng thiếu thành thật;
tình bạn phai nhạt vì bạn bè không trung thực; công ty sụp đổ vì các thành viên
trong hội đồng
quản trị thiếu minh bạch, trong sáng, thì tình cha mẹ - con cái cũng có nguy
cơ giảm sút, nếu tình cha - con,
mẹ - con không được xây dựng trên nền tảng sự thật. Tuy ít được dài dòng định nghia, nhưng
ai cũng hiểu sự thật là gì;
ít được giảng dạy về ý niệm sự thật, bản chất sự thật, nhưng dường như chưa có
người nào định nghia sai sự thật.
Vấn đề còn lại là sự thật có được tôn trọng đúng mức trong các tương quan hay
không? Tương quan nào
cũng cần sự thật, vì bất cứ một gặp gỡ, liên lạc nào cũng bắt đầu bằng nhận
diện nhau, nhận định sự việc, nhận
xét bối cảnh. Đã nhận diện nhau thì phải nhận cho đúng mặt nhau, lòng nhau.
Đã nhận định thì sự việc phải được quan sát chính
xác, rạch ròi. Đã nhận xét thì bối cảnh phải được trình
bay minh bạch. Trong sinh hoạt
nhân loại, sự thật càng được tôn trọng, tương quan càng vững chắc, bền bỉ; trái
lại, tương quan sẽ èo uột, bệnh
hoạn, hời hợt, khi sự thật vắng bóng. Trước vấn đề nói sự thật, có những quan
điểm và thái độ khác
nhau.
1. Chủ trương “nói toạc móng
heo” mọi sự thật biết được
Những người này đề cao tính “trung thực,
thẳng thắn, chân thành”, nên
không giấu giếm bất cứ sự thật nào, của bất cứ ai, trong tình huống, hoàn cảnh
nào, ngay cả có hại cho
người khác. Quan điểm không cất giữ sự thật, không tiên liệu, đo lường hậu quả
khi sự thật được tiết lộ thường
đưa đến nhiều khó khăn, kể cả nguy hiểm cho người khác, đặc biệt người liên quan đến sự thật. Có những sự thật chỉ
đem lại đổ vỡ, tang thương, những sự thật không xây dựng nhưng tàn phá. Với
những người chủ trương “thẳng
thắn, bộc trực” này, sự thật như một lưỡi kiếm sắc bén có thể cắt đứt mọi cuộc
sống đang bình an, hạnh phúc của
nhiều người. Nhưng với họ, sự thật là sự thật, và vì sự thật trước sau cũng sẽ
bị tiết lộ, nên nói sớm hay muộn, sự
thật vẫn không thay đổi. Nghi như thế, họ quên một điều quan trọng là sự
thật luôn đứng với con người, gắn
bó với hạnh phúc của con người, chứ không sừng sững, đơn độc, tách rời khỏi
con người đến độ trở thành sự
thật phi nhân. Đang khác, thời gian là yếu tố cần thiết cho mọi quyết định của
con người: có những thời điểm thuận lợi, và những thời
điểm bất lợi, những khoảng thời
gian được phép, và không được phép. Chọn lựa đúng đắn và thích hợp thời điểm
để nói sự thật là nghệ thuật sống
của con người khôn ngoan có lòng bác
ái, nhân từ, và biết sống với người khác.
2. Chủ trương im lặng khi cần,
nhưng không nói dối
Người theo quan điểm này đặt ích lợi của
những người mà sự thật
có thể ảnh hưởng lên trên tất cả, nên từ chối nói hết sự thật, không nói “toạc
móng heo” mọi điều mình biết,
nếu sự thật làm hại, hoặc gây ảnh hưởng xấu cho người liên quan. Tuy thế, họ
không tự cho phép thêu dệt một “sự
thật khác” thay thế sự thật không nói ra. Đặt hạnh phúc của người khác lên hàng đầu,
chủ trương này chọn
thái độ dè dặt, thận trọng, khôn ngoan khi đứng trước sự thật, vì ý thức sức mạnh
của sự thật có thể xây dựng
và phá đổ. Vấn đề là phải biết khi ở thời điểm nào, và mức độ nào sự thật được
phép xuất đầu lộ diện. Gia đình là nơi cất giấu nhiều sự thật
nhất, vì đó là nôi sinh ra con
người, và chỗ tàng trữ lịch sử riêng của mỗi người. Vì thế, sự thật giữ một vai
trò quan trọng trong đời sống
gia đình. Có những sự thật
rất vui, rất phấn khởi, nên phổ biến,
chia sẻ, nhưng gia đình cũng mang những sự thật đau lòng, u uất, buồn tủi, cay đắng, bẽ
bàng, ô nhục cần giấu
kín, ém nhẹm, chôn vùi. Vấn đề là sự thật có đóng góp cho bình an
và hạnh phúc của mọi thành viên trong gia đình, hay sẽ là cớ gây nên đau khổ,
chia rẽ, đổ vỡ? Trong tương quan
cha mẹ - con cái, sự thật ít được đặt thành vấn đề, vì thường cha mẹ tự
cho mình quyền nắm giữ mọi sự
thật. Chính vì độc quyền sự thật, nên sự thật chỉ được rì rỏ tùy theo mức độ,
hoàn cảnh, ý muốn của cha mẹ.
Cũng chính vì độc quyền sự thật, và có khuynh hướng coi con cái còn bé bỏng,
chưa nên biết sự thật, mà nhiều
khi sự thật bị rì rỏ ngoài ý muốn của cha mẹ đã làm khủng hoảng tinh thần của
con cái, làm xáo trộn đời sống,
và có thể đưa đến hậu quả tâm lý tiêu cực như bất mãn, trầm cảm, suy sụp. Thường con cái rất nhạy bén về nguồn gốc
của mình, nên những đứa
con ngoại hôn, con nuôi… hay thắc mắc, tìm tòi ai là cha thật, mẹ thật, anh chị
em thật của mình. Không ít cha mẹ
đã cắn răng, khóc thầm trước câu hỏi của con về nguồn cội của mình: Ai là mẹ
của con? Ai là cha của con?
Tại sao con không được ở với cha, mẹ ruột? Tại sao lại như thế? Mỗi nhà mỗi cảnh, nên niềm vui, nỗi buồn
của mỗi gia đình cũng
không giống nhau, như kho bí mật các sự thật của mỗi gia đình không cùng kích
thước, dung lượng. Vấn đề
riêng, nên phương án giải quyết cũng rất đặc thù, không thể áp dụng chung một
khuôn mẫu, định đề cho tất
cả. Người ta chỉ có thể dựa theo một vài nguyên tắc chung mang tính hướng dẫn:
a. Sự thật là sự thật của con
người
Sự thật của con người nên dính với da thịt,
xương máu; gắn với cuộc
đời, lý lịch, gia thế, gia tộc của con người cụ thể, sống động. Đã là sự thật của
con người, sự thật không
khơi khơi, trơ trọi một mình, hay không dính vào ai, không bám vào nhà nào; trái
lại, bất cứ sự thật nào của con
người cũng thuộc về một người, nhiều người, rất nhiều người, cả người còn sống
lẫn người đã chết, cả người
có mặt và người vắng mặt. Chính vì thế, đụng chạm, lay động, đánh thức, đao bới
sự thật, là đụng chạm con người,
lay động đời sống con người, đánh thức ký ức con người, đao bới cuộc đời con
người. Có những sự thật gắn bó
thiết thân với hạnh phúc, tương lai, danh dự, sự nghiệp của con người; có những sự
thật ít gắn bó hơn, nhưng tất cả
đều thuộc về con người và ít nhiều ảnh hưởng đến con người. Nguyên tắc này giúp ta ý thức tầm quan
trọng của sự thật, và thái độ
phải có trước sự thật. Nếu sự thật chỉ là một thực tại không dính dáng gì đến con
người, không ảnh hưởng gì đến
đời sống con người, không lợi hại gì cho con người thì sự thật không cần phải
được quan tâm, thận trọng khi
công bố, tiết lộ. Nhưng vì có con người ở đó, vì hạnh phúc, bất hạnh của con người
gắn liền sự thật, nên không
thể té tát sự thật về một người như hắt một thau nước; không thể tuôn xả sự thật
về ai đó như xả cống nước đầu
nguồn; không thể tung toé sự thật về người khác như thả thúng lông gà trước
gió.
Trách nhiệm của người nói sự thật được đặt ở đây, vì
sự thật không “vô hại, vô thưởng
vô phạt”, nhưng tác động mãnh liệt, và ảnh hưởng lớn lao trên danh dự, sự
nghiệp, cuộc sống của cá nhân, gia
đình người liên quan sự thật. Cha
mẹ có những sự thật về mình và về con cái, những sự thật của đời cha mẹ, những sự
thật gọi về quá khứ của con.
Trong số những sự thật sẽ không tránh được những nét chữ buồn, những biến cố không
vui, những lỡ lầm ô nhục, những
vấp ngã thương đau, nên cha mẹ phải cân nhắc để khi gợi lại những sự thật của
hôm qua, tiết lộ những sự thật của
di vãng, vẫn bảo đảm hiện tại của con cái không bị chao đảo, lật nhào vì vượt
sức chịu đựng vốn có hạn của
chúng. Cũng vì là những sự thật của con người, nên không nhất thiết phải nói hết
sự thật, bởi có những sự thật
“chết mang theo” phải được chôn giấu thật sâu với mình, khi hạnh phúc, bình an của
người khác bị liên quan.
Nguyên tắc bác ái, vị tha một lần nữa trở nên tiêu chuẩn ưu tiên trong mọi lựa chọn
“nói hay không nói” sự thật. Cha mẹ có quyền nói sự thật, và có quyền
không nói sự thật về mình
cho con cái, cũng như sự thật của chính con cái, nếu xét thấy điều được nói ra
mang lại bình an cho con. Hạnh
phúc của con là yếu tố quyết định của việc “nói hay không nói sự thật” cũng
như “khi nao nên nói, và nói đến
đâu”. Tất nhiên trước sau gì thì sự thật cũng được chia sẻ với con cái, nhưng chọn
sai thời điểm, nói
quá những gì cần nói sẽ gây những chấn động tâm lý bất lợi, làm tổn
hại tinh thần, đảo lộn đời sống của con. Trách nhiệm của mẹ cha không chỉ gói
ghém ở việc sinh ra con, mà còn bao
trùm hết cả đời con, nên thành công, thất bại, bất hạnh, hạnh phúc của con đều
có công, tội của cha mẹ.
b. Sự thật sẽ vô nghia nếu đứng ngoài trái tim
Vì sự thật là sự thật của con người, dính dáng đến cuộc sống con người, nên con người là đối tượng
của sự thật. Vì sự thật cần con người,
nên sự thật phải phục vụ hạnh phúc của
con người, nếu không, con người không cần
sự thật, khi sự thật chỉ mang lại cho con người tai ương, bất hạnh. Sở di người ta sợ nói thật điều mình nghi,
điều mình biết với người khác, là vì
người khác không nghe sự thật để yêu
thương, xây dựng, không đón nhận sự thật để cứu chữa, phục hồi; trái lại, dùng sự thật biết được để quật ngã, truy diệt, khống chế, hãm hại người
đã nói lên sự thật. Trong xã hội hôm
nay, sự thật quả rất hiếm, vì dưỡng khí
tình yêu không còn. Người ta không còn dám nói sự thật trong một bối cảnh vắng bóng tình huynh đệ, tình liên đới, tinh thần vị tha, ý thức xây
dựng, và lòng bao dung. Bất cứ sự thật
nào cũng bị xuyên tạc, bóp méo và trở
thành tai họa cho người biết sự thật. Gia
đình cũng không tránh khỏi tình trạng “không
có sự thật” này, chỉ vì cha mẹ không đủ khả năng cho con cái thấy mình thương yêu chúng hết
tình, hết mình và đến cùng. Chính tình yêu tạo nên lòng
tin tưởng, tín nhiệm của con
cái nơi cha mẹ. Nhờ tình yêu, con cái cảm được mức độ an toàn tuyệt đối khi
nói sự thật. Với tình yêu, con
cái an tâm nói hết sự thật về mình với cha mẹ để nhận được tình yêu thông cảm, tình
yêu nâng đỡ, tình yêu hướng dẫn. Nhiều cha mẹ không dám nói với con về những
sự thật cứ “nặng nề
ảnh tâm hồn”, vì ngại con sẽ không thông cảm, rồi nặng lời khinh bỉ, lên
án. Cũng có những đứa con ngại
ngùng chia sẻ những sự thật không vui của mình với cha mẹ, vì sợ cha mẹ nổi giận,
nguyền rủa, xua đuổi. Và đó
chính là thảm kịch của gia đình. Thảm
kịch ấy sẽ mở màn khi cha mẹ, vì quá khao khát danh dự xã hội đã không dành một chỗ
trống trong trái tim mình
cho sự thật của con cái; đã quá mê man tiếng thơm người đời ban cho, mà quên
cho con một khoảng trống an
toàn tận đáy sâu tâm hồn mình; đã quá trọng vọng ngôi thứ trong xã hội, mà loại
bỏ chỗ đứng ưu tiên của con
trong đời mình. Thảm cảnh của những đứa con không được cha mẹ lắng nghe khi muốn
nói sự thật, không được chấp
nhận khi sự thật bẽ bàng, ô nhục, ảnh hưởng gia phong, gia thế. Thảm cảnh ấy
nhan nhản trong nhiều gia đình
và tàn phá không tiếc thương tương lai của con cái đang cần được tình yêu cha mẹ
ươm trồng. Như thế, sự thật
phải đi đôi với tình thương, nếu không
muốn sự thật trở nên bạc bẽo, lạnh lùng, sắt máu, phi nhân. Sự thật
phải đồng hành với tình yêu, để sự thật không lấy con người làm phương tiện,
không nghiền nát con người,
không dập vùi con người dưới đế giầy sắt thép, ác độc. Tình yêu phải trở
thành lẽ sống của sự thật. Trái tim
phải là nền tảng hiện hữu của sự thật, nếu không, sự thật sẽ chẳng phục vụ ai, chẳng
đem lại lợi ích gì cho cuộc sống,
trái lại, sự thật sẽ là nguyên nhân của tất cả mọi đổ vỡ, đau khổ. Và cái phi
lý, vô nghia của sự thật chính là sự
vắng bóng tình yêu trong sự thật. Cha mẹ biết sự thật của con để nâng đỡ,
an ủi, chữa lành con, nếu
tình yêu cha mẹ còn đó. Cha mẹ nắm giữ sự thật về con, để uốn nắn con, xây dựng
con, nếu trái tim cha mẹ còn
chỗ cho con ẩn náu. Cha mẹ tìm kiếm sự thật về con để tránh cho con những cạm bẫy
nguy hiểm, nếu con còn tự
do bay nhảy trong bầu trời yêu thương của tình cha mẹ. Cha mẹ nói với con sự
thật về con, dù là sự thật rất
đau lòng, để chữa trị, cứu vớt con, nếu vầng trán cha còn nhăn nheo tình phụ tử, và mắt
mẹ còn ngấn lệ tình mẹ con.
Chỉ tình yêu cha mẹ mới là sự thật trên tất cả sự thật của con. Chỉ tình yêu cha
mẹ mới đủ lớn để ôm lấy hết sự thật
“kinh khủng” của con. Chỉ tình yêu cha mẹ mới vươn xa đến tận tương lai xa
tít tắp của con, mặc dù hôm nay
con đang bê bết với nhiều sự thật rất bẽ bàng, cay đắng. Chỉ tình yêu cha mẹ mới
nhìn thấy ngày phục sinh của
con, dù hôm nay con đang hấp hối trong cơn sốt sự thật. Vâng, chỉ có tình cha mẹ
mới đón nhận được tất cả sự
thật của con dù đó là sự thật vui hay buồn, đáng nhớ hay cố quên đi, tốt đẹp hay xấu xa, vinh dự hay ô nhục, phấn khởi hay ê chề. Và chỉ duy nhất
một tình yêu phụ mẫu ấy mới biến đổi được
tất cả sự thật của con thành những bước
chân đi về tương lai hạnh phúc. Tóm lại,
một khi sự thật của con cái được tình yêu cha mẹ đồng hành thì hạnh phúc gia đình chắc chắn được bảo đảm. Với tình yêu, cha mẹ sẽ:
a. Khôn ngoan kiểm chứng
sự thật
Kiểm chứng sự thật để con
không bị oan uổng, để dư luận bên
ngoài, tiếng đời thị phi không khuynh đảo được bầu khí gia đình, làm xiêu vẹo mái ấm bình an. Khôn ngoan kiểm chứng để không sự thật nào
là sự thật bị thêu dệt, bóp méo, hầu
tránh hiểu lầm con, đẩy con vào đường
cùng, chân tường, ngõ bí.
b. Đo lường mức độ của sự thật sẽ được chia sẻ với con
Có những sự thật chỉ được phép nói một
phần nhỏ, vì sức chịu đựng của con cái
có hạn. Không ai bắt cha mẹ phải huỵch toẹt nguyên con sự thật. Làm như thế là cẩu thả, và có thể gây sốc cho con.
c. Chọn không gian, thời điểm xứng hợp
Sự thật cần không gian, va thời gian
thích hợp để được chia sẻ. Giữa đường
không thể “mổ xẻ” con; trước mặt người
khác, không thể xấn xổ mắng nhiếc con. Một nơi kín đáo, một bầu khí ấm
cúng, thư giãn, một thời điểm thuận lợi
sẽ giúp cha mẹ và con cái trao gửi và đón
nhận sự thật một cách tốt đẹp, xây dựng, tình nghia.
d. Cách chia sẻ sự thật
Oang oang, sang sảng, lấn lướt la điều tối
ky phải tránh khi nói với con cái về sự
thật của chúng, hoặc lắng nghe chúng
tâm sự. “Cách cho” quan trọng thế nào, thì “cách nói” cũng cần thiết như thế. Phải biết nói sự thật vì tự thân, sự thật đã là điều khó nói, khó
nghe. Phải biết chia sẻ sự thật, vì chẳng
mấy ai muốn người khác nói với mình về
sự thật của mình, khi sự thật ấy là sự thật không đẹp, không vui. Vì thế, cách nói với nhau về
sự thật là một nghệ thuật ở mức độ cao,
mà chỉ những tâm hồn lớn, cõi lòng rộng
mới có thể đạt đến cao độ của nghệ thuật tình yêu này.
e. Không được rời xa mục đích:
Hạnh Phúc của con
Trong khi chia sẻ sự thật với con cái, cha mẹ không được rời xa mục đích của chia sẻ là hạnh
phúc của con. Tất cả mọi mục tiêu khác
đều không được phép “qua mặt” mục đích
yêu thương này. Bởi một khi vì danh dự, gia phong, cha mẹ có thể quên hạnh phúc của con là mục đích tối hậu, mà gạt con xuống hàng thứ
yếu, rồi tỏ thái độ coi thường, thiếu
trân trọng, cảm thông với con.
f. Chia sẻ với con như với
một người trưởng thành
Ngay cả con
còn nhỏ, cha mẹ cũng không nên coi thường
con, trái lại, hãy coi con cái như những nhân vị phải được trân trọng. Coi con như người trưởng
thành sẽ giúp con nhận ra trách nhiệm của
mình trong tất cả mọi sự thật liên
quan; nghia là cho con cái thấy giá trị, và hậu quả của ý chí tự do nơi mỗi người, đồng thời
khơi dậy trong con cái tinh thần trách
nhiệm là khả năng không thể thiếu của
người trưởng thành, nhờ đó, con cái sẽ ý thức vai trò của mình trong gia đình, và xã hội. Để kết luận, ta có thể nói: Nếu gia đình la
chiếc nôi của sự sống, thì gia đình
cũng là trường giáo dục sự thật, bởi chỉ
ở trong gia đình là tổ ấm yêu thương, sự thật mới giữ được căn tính và đạt được mục đích giải
phóng của mình. Sự thật trong tình yêu
sẽ giải phóng con người khỏi mặc cảm nặng
nề, khỏi ảo tưởng vu vơ, khỏi hoang mang,
lầm lạc. Nhờ thế, con người sống bình an trong chân thực với chính mình, và với người khác, nhờ có tình yêu bảo chứng. Được sống trong gia đình trân quý sự thật,
có cha mẹ tôn trọng sự thật, con cái sẽ
lớn lên như những đứa con trưởng thành
trong sự thật: sự thật của tình yêu, sự thật
có tình yêu, sự thật để tình yêu lớn mạnh, và sinh sôi nảy nở, đơm hoa kết trái Hạnh Phúc cho cuộc đời.
Quý độc giả vui lòng đọc tiếp chương 6 : http://tinmungduongpho.blogspot.com/search/label/CMYT-chuong6