Không
phải ngẫu nhiên mà Giáo Hội chọn ngày đầu năm để mừng lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa.
Trái lại, Giáo Hội muốn nhấn mạnh và nhắc nhở : Thiên Chúa đã đi vào lịch sử của con người, đi vào dòng
đời của nhân loại, đi vào chuỗi ngày sống của mỗi người, đi vào thời khắc của sinh hoạt đời sống, bằng xuống thế làm người trong cung lòng của Đức Maria. Nhờ Đức Maria, Thiên
Chúa đã thực hiện tốt đẹp công trình cứu độ nhân loại mà Ngài đã hứa ngay sau khi ông bà nguyên tổ loài nguời phạm tội. Vì thế, từ nay, lịch sử của nhân loại là lịch sử cứu độ, nói cách
khác, ơn cứu độ tuôn tràn vào lịch sử của con người, và thời gian của đời sống trở thành thời gian của Cứu Độ, nhờ sự cộng tác tích cực và trọn vẹn của Đức Maria.
Nhiều người cho rằng tín điều Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa là
một tín điều không có nền tảng, và cho đó là một điều phi lý, vì
con người làm sao có thể làm mẹ của Thiên Chúa,
thụ tạo sao có thể sinh ra Đấng Chủ Tạo dựng nên mình?
Nghĩ như thế chính là phủ nhận Đức Giêsu, Thiên
Chúa làm người "trăm phần trăm" và coi mầu nhiệm làm nguời của Thiên Chúa chỉ là việc tạm bợ mượn hình hài con người, tạm thời đội lốt con ngưòi
trong một thời gian. Điều này sẽ đưa đến việc phủ nhận toàn bộ những đau khổ do cực hình trên đường Thánh Giá, và kết luận Đức Giêsu đã chẳng đau đớn, nhục nhằn gì khi chịu khổ hình và chịu chết, vì Ngài không là con người như những con người.
Để trả lời những người này, thánh Phaolô đã nhiều lần qủa quyết: "Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên
Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân,
sống như người trần thế" (Pl 2, 6-7).
Vì trở nên phàm nhân, sống như người trần thế, Đức Giêsu cần một người mẹ để đuợc sinh ra làm
người, cần có mẹ để được sống, lớn lên, trưởng thành. Làm nguời, Ngài cần có cha để nương tựa, dậy dỗ; cần mái ấm gia đình để được yêu thuơng,
học biết yêu thương, và đuợc chở che, nâng đỡ.
Do đó, đòi hỏi phải có mẹ là chính đáng
và Đức Maria chính là mẹ của Đức Giêsu, mẹ của Đức Giêsu Thiên
Chúa làm nguời, mẹ của Đức Giêsu toàn diện, toàn phần, mẹ của Đức Giêsu duy nhất, chứ không chỉ là mẹ của "một nửa Đức Giêsu nhân
tính", mà loại trừ "Đức Giêsu thiên
tính" cùng lúc hiện diện nơi Ngài.
1. Là Mẹ
Thiên Chúa, Đức Maria luôn có Đức
Giêsu Thiên Chúa làm người trong suốt cuộc
đời.
Không một giây phút rời xa Đức Giêsu, từ ngày chịu thai bởi phép Chúa
Thánh Thần, Đức Maria đã thuộc trọn vẹn về Thiên Chúa, và sống chết cho Thiên
Chúa.
2. Là Mẹ
Thiên Chúa và là con người, Đức Maria biết Thiên Chúa muốn
gì nơi con người và con người cần
gì ở Thiên Chúa.
Đức Maria còn là Mẹ của nhân loại, Mẹ của tất cả những người tin và đi
theo Đức Giêsu, con Mẹ Vì thế, Mẹ hiểu hết thao thức, lo âu, ước vọng của chúng ta; Mẹ thấu đáo nhu cầu xác - hồn của mỗi người, và xin Chúa can thiệp giúp đỡ. Phép lạ nước hoá thành rượu ngon ở tiệc cưới Cana là một điển hình: "
Có tiệc cưới ở Cana miền Galilê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giêsu. Đức Giêsu và các
môn đệ cũng được mời tham dự. Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giêsu nói với Người: "Họ hết rượu rồi" (Ga 2, 1-3).
Nói với Đức Giêsu về tình trạng hết rượu của nhà đám, Đức Maria cảm thông khó
khăn, bế tắc của đôi tân hôn và gia đình hai họ. Chúng ta cũng
biết: sự cố hết rượu giữa bữa tiệc là điều tối kị trong mọi nền văn hoá.
Tối kị vì mất mặt chủ đám, mất vui cho gia
đình, mất khí thế buổi tiệc đang hào hứng, sôi nổi, mất tin tưởng giữa những người có trách nhiệm vì sẽ quy trách cho nhau, mất hoà khí trong
nhà, vì người này sẽ đổ lỗi cho người kia, mất tình nghiã chủ - khách, vì những thị phi, bóng gió trách móc, phê bình không thể tránh. Tóm lại, sự cố hết ruợu làm mất đi niềm vui và bình
an cho mọi người.
Cảm thông nỗi khó khăn, bế tắc của con người, Đức Maria đã xin Đức Giêsu can thiệp. Và
"Thiên Chúa làm người" đã biến "nuớc trong sáu chum đá, mỗi chum chứa khoảng tám mươi hoặc một trăm hai
mươi lít" dùng vào việc thanh tẩy theo truyền thống Do Thái thành rượu ngon (x. Ga 2, 6-10).
Thực vậy, nếu Đức Maria đã đọc được tình trạng bấn loạn vì hết rượu của nhà đám, thì
Mẹ cũng biết đã đến lúc Đức Giêsu cần bầy tỏ vinh quang Thiên Chúa của Ngài, để các môn đệ tin vào Ngài.
Và qủa thực, sau phép lạ đầu tiên ở tiệc cưới Cana, "các môn đệ đã tin vào
Ngài" (Ga 2,11).
Tóm lại, ở vị thế Mẹ nhân lọai, Đức Maria biết và thương
chúng ta, đồng thời Mẹ dâng lên Thiên Chúa đời sống của chúng ta với ước mơ, khắc khoải, lo âu và mọi nhu cầu. Là Mẹ Thiên Chúa, Đức Maria lo liệu để loài người thực hiện Thánh Ý
Thiên Chúa, như Mẹ đã căn dặn các gia nhân trong tiệc cưới: "Người bảo gì, các anh
cứ việc làm
theo" (Ga 2,5), đồng thời kêu xin lòng khoan nhân của Thiên Chúa
cho hạnh phúc của con người. Một cách vắn tắt, ta có thể nói: thao thức và hoạt động của Mẹ ngày xưa còn tại thế, cũng như hôm
nay đang ở trên trời vẫn mãi là vinh quang của Đức Giêsu, Thiên
Chúa, Con của Mẹ, và hạnh phúc của nhân loại, cũng là con Mẹ. Bằng chứng là Mẹ vẫn
hiện ra đó đây với con cái loài
người để ủi an, nâng đỡ, nhất là để nhắc nhở nhân loại thực thi Thánh Ý, để được hạnh phúc viên
mãn, đích thực.
Lậy Mẹ Maria, Mẹ vô cùng diễm phúc, vì
cùng lúc vừa là Mẹ Đức Giêsu, Thiên Chúa, vừa là Mẹ loài người chúng con.
Nhờ có Mẹ, chúng con được ở trong gia đình Thiên Chúa, có Đức Giêsu là
Anh. Vì có Mẹ, chúng con an tâm vững bước trên đường theo Đức Giêsu, và
luôn tín thác "làm những gì Ngài nói", như Mẹ đã ân ần căn dặn.
Jorathe Nắng Tím