Làm ăn, buôn bán trong xã hội hôm nay đều cần đến khế ước, giao kèo. Không giao kèo, khế ước và
không có con dấu to đùng, đỏ chói của phòng Công Chứng thì coi chừng mất toi sự
nghiệp, phá sản, trắng tay. Bao nhiêu cảnh mếu máo khóc như cười, cười như
khóc, dở dở điên điên, khùng khùng dại dại xảy ra hằng ngày trên đất nước này
khi niềm tin ở nhau không còn, hai chữ tín nhiệm, trung tín chỉ còn là những từ
ngữ vô nghĩa. Nhà cửa, ruộng đất, gia tài… tất tất trở thành mồi ngon, cạm bẫy,
cớ vấp phạm và người ta rình rập, căn me, lật lọng, giành giật, cắn xé nhau. Khế
ước, giao kèo vì thế càng trở nên cần thiết để ngăn chặn những cảnh huynh đệ
tương tàn, những màn lừa đảo thần kỳ, những thủ đoạn tuyệt chiêu “phỗng tay
trên”.
Không buôn bán, làm ăn như thiên hạ
đang biến “thương trường thành chiến trường”, nhưng Đức Kitô cũng rất nhân loại
và hợp thời khi dùng ngôn ngữ của thời đại để chuyển tải chân lý siêu nhiên khi
Ngài dùng kiểu giao kèo rất đong đưa, khéo léo để nói về lòng thương xót của
Thiên Chúa.
Tin Mừng thánh Luca thuật lại: “Đức
Kitô nói với đám đông: “Hãy có lòng xót thương như Cha các con trên trời. Đừng
đoán xét để khỏi bị đoán xét. Đừng lên
án để khỏi bị lên án. Hãy tha thứ
để được thứ tha. Hãy cho đi và sẽ nhận về những đấu lớn, chặt đầy, vì các con
đong đấu nào thì sẽ được đong lại bằng đấu ấy” (Lc 6,36-39). Khế ước thương xót
của Đức Kitô rất rõ ràng và chính xác gồm hai vế cân đối: ai không xét đoán người
khác thì sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Ai tha thứ người khác thì sẽ được
Thiên Chúa thứ tha. Ai rộng lượng với người khác thì sẽ được Thiên Chúa rộng lượng.
Nói tóm lại, cư xử với tha nhân thế nào thì sẽ được Thiên Chúa cư xử như vậy. Rộng
rãi với tha nhân làm sao thì Thiên Chúa sẽ rộng lượng như thế. Khế ước, giao
kèo giữa con người với Thiên Chúa thật minh bạch, công bằng.
Đức Kitô xác định ngay từ đầu: Hãy
có lòng xót thương như Cha các con là Đấng giàu lòng thương xót. Đây chính là mục
tiêu của khế ước. Mục tiêu này nhằm biến đổi tất cả những ai đi theo Đức Kitô
thành những người có lòng xót thương, thay đổi trái tim chai đá thành những
trái tim biết chạnh lòng thương, động lòng trắc ẩn, làm cho những cứng cỏi, ngạo
nghễ, dữ tợn trong tâm hồn trở nên mềm mỏng, hiền hậu, khiêm nhường để thật
lòng xót thương. Mục tiêu Đức Kitô kêu gọi những người theo Ngài là trở nên môn
đệ của Thiên Chúa đầy lòng thương xót, môn sinh của sư phụ chỉ biết xót thương
và chứng nhân của Cha trên trời là Tình Yêu vô cùng nhân hậu. Đức Kitô nói thế,
bởi sự thánh thiện của Thiên Chúa chính là lòng thương xót của Ngài. Ngoài lòng
thương xót, Thiên Chúa sẽ không minh chứng được sự thánh thiện của Ngài. Bỏ đi
lòng thương xót, Thiên Chúa sẽ không còn là Thiên Chúa của Đức Kitô đã mạc khải.
Suốt cuộc đời dương thế, Đức Kitô, Con Thiên Chúa đã chỉ làm chứng một chân lý:
Thiên Chúa là tình yêu thương xót và “tình xót thương của Ngài trải từ đời nọ đến
đời kia, tràn trề trên những ai kính sợ Ngài”. Cũng chính để làm chứng chân lý
“Thiên Chúa xót thương” mà Đức Kitô đã chịu khổ hình và chịu chết để đi đến tận
cùng cái logic của lòng thương xót vô cùng ấy. Chính vì sự thánh thiện của
Thiên Chúa hệ tại ở lòng Ngài xót thương, nên khi trình bày một Thiên Chúa
không xót thương, hay một Thiên Chúa ghen tị, thích “bới lông tìm vết”, một
Thiên Chúa với cặp mắt cú vọ rình mò tội lỗi của con cái thì chắc chắn Thiên
Chúa ấy rất xa lạ, và hoàn toàn không phải Thiên Chúa của Đức Kitô, “Đấng giàu
lòng thương xót, nhân từ, chậm bất bình và rất đỗi khoan dung”, “Thiên Chúa nhẫn
nại đợi chờ, vất vả tìm kiếm, dõi mắt ngóng trông bước chân trở về của đứa con
hoang đàng, tội lỗi”, “Thiên Chúa lặn lội ngược xuôi tìm cho được chiên con lạc
đàn và hân hoan, âu yếm ẵm trên vai”.
Dưới
bút vẽ của một người nghèo nàn tình yêu, rỗng tuyếch tình người, cằn cỗi tình
thân thì Thiên Chúa sẽ mang diện mạo cau có, bẳn gắt, khó chịu của một quan toà
chỉ hạch tội chứ không quan tâm đến hoàn cảnh, cuộc sống và những đức tính,
hành động tốt của can phạm mà khoan hồng, ân xá. Trong đôi mắt chật hẹp, thiển
cận của con người có giới hạn, có thể Thiên Chúa sẽ bị “chỉnh hình” thành ông kẹ
hung dữ, cai ngục gian hùng. Bằng bàn cân, thước đo rất bủn xỉn, hà tiện của
con người,
Thiên Chúa sẽ trở thành ông chủ
keo kiệt, bất nhân, hà khắc. Nói tóm lại, ngoài Đức Kitô, con Thiên Chúa từ Trời
xuống, không ai trong nhân loại đã có thể nói đúng Thiên Chúa là ai, Ngài làm
gì và muốn gì. Chỉ một mình và duy nhất một mình Đức Kitô, Thiên Chúa mới mạc
khải chính xác Thiên Chúa là Tình yêu thương xót, Ngài hằng thương xót con người
từ đời nọ đến đời kia và muốn tất cả mọi người trở nên giống Ngài trong lòng
tình yêu xót thương.
Căn cước, dung mạo, hoạt động, đường
lối, kế hoạch của Thiên Chúa thật quá rõ qua giáo huấn và cuộc đời Đức Kitô.
Không còn nghi vấn nào về Thiên Chúa mà Đức Kitô đã không công khai trả lời những
người đương thời, nhất là các ông Biệt Phái thông thạo giáo lý, lề luật. Vấn đề
là họ đã không thể chấp nhận được hình ảnh, dung mạo, căn cước một Thiên Chúa đầy
lòng xót thương. Điểm chính yếu trong vụ án giết Đức Kitô chính là những người
lãnh đạo tôn giáo thời đó đã không đủ từ tâm, nhân hậu để chấp nhận Thiên Chúa
rất từ tâm, nhân hậu. Người hung dữ, kẻ ác tâm, độc địa thường xa lạ và xa
tránh những gì là nhân ái, hiền lành, yêu thương. Như bóng tối không thể ở cùng
ánh sáng, như rạng đông rực rỡ không thể chung với đêm đen một bầu trời; những
trái tim đen ngòm hận thù, tham lam, ích kỷ sẽ không bao giờ chấp nhận Thiên
Chúa của mình lại là Thiên Chúa của khiêm nhường, bao dung, độ lượng, thứ tha.
Người ác cần sư phụ ác như tín đồ giáo phái giết người cần một Thiên Chúa điên
cuồng, khát máu. Những người lãnh đạo tôn giáo và một số người a dua theo họ đã
lập mưu bắt, kết án và giết Đức Kitô chỉ vì Thiên Chúa giàu lòng thương xót của
Ngài làm chứng đã cản trở đường lối thù hận, hung dữ, ác độc của họ; chỉ vì
Thiên Chúa thương người tội lỗi của Đức Kitô làm họ mất mặt, mất uy tín, mất cả
đất sống, đất làm ăn khi tình thương xót trước sau sẽ lôi cuốn mọi tâm hồn như
họ đã sốt ruột than thở với nhau: “Chúng ta phải làm gì bây giờ?... Nếu cứ để
ông ta tiếp tục, mọi người sẽ tin theo ông ta” (Ga 11,47-48).
Tin
theo Đức Kitô như thế là tin Thiên Chúa là tình yêu thương xót, đồng thời phải
trở nên thương xót như chính Ngài. Nhưng ai là đối tượng của lòng thương xót?
Thưa
chính chúng ta. Chúng ta gồm ta và mọi người. Trước hết, đối tượng của
lòng thương xót nơi ta chính là ta, vì ta cũng rất cần được xót thương trước
khi ta xót thương được mọi người. Xót thương chính mình là đương nhiên nhận
mình cần xót thương. Người cần xót thương là người yếu đuối, thiếu thốn, có tội.
Nhận mình cần được xót thương là khiêm tốn, chân thành. Lòng khiêm nhường đã trở
thành đất tốt, điều kiện thuận lợi cho lòng xót thương và nhận mình cần được
thương xót là thái độ đẹp nhất của con cái Thiên Chúa xót thương. Nhờ thái độ
và tâm tình khiêm tốn mà ơn thương xót tuôn đổ tràn trề trong tâm hồn người biết
xót thương. Khi biết mình cần xót thương, người có lòng thương xót sẽ dễ dàng cảm
thông, thương xót người khác. Có kinh nghiệm tội lỗi mới biết nhẹ lời với tội
nhân. Có khổ vì tội mới biết người có tội khổ như thế nào và dễ chia sẻ, giúp họ
thoát ra mặc cảm tội lỗi. Có day dứt, cay đắng vì tội mới hiểu nỗi cô đơn đày đọa
của người phạm tội… Nhờ thế mà xót thương bênh đỡ, xót thương chở che, xót
thương tha thứ, xót thương chữa lành, xót thương phục hồi, xót thương thăng tiến.
Xót thương mình và xót thương người luôn song hành và hỗ trợ nhau. Người không
hề xót thương mình là người mang ảo tưởng thánh thiện, nghĩ mình đạo đức, hoàn
thiện. Họ đang ở gần biên giới kiêu căng, tự phụ và bên bờ vực thẳm của sơ cứng,
vô cảm trước tha nhân. Trái tim bằng thịt giàu lòng xót thương trước hết là
trái tim khiêm tốn, hiền lành nhận mình cũng rất đáng thương và luôn cần được
thương xót. Cũng trái tim ấy sẽ thiết tha với tình yêu xót thương mọi mảnh đời,
mọi cảnh đời và sẵn sàng ôm lấy hết mọi cuộc đời đáng thương như họ trong cùng
một trái tim đầy tình yêu thương xót. Họ đang nên giống Cha trên trời là Đấng
làm mưa nắng trên cả kẻ dữ, người lành chỉ vì lòng xót thương của Ngài vô cùng,
vô tận, vô thủy vô chung.
Đặt chúng ta trước khế ước, giao kèo Thương Xót, Đức Kitô
nhắc nhở lòng thương xót của Thiên Chúa không là một thứ thương xót rẻ tiền, vứt
đầy đường để ta tha hồ dẫm lên, đùa cợt, coi thường. Lòng thương xót của Thiên Chúa tuy
vô điều kiện vì Ngài chẳng đòi ta điều gì có lợi cho Ngài, tuy đơn phương vì
Ngài luôn là người bắt đầu bước thứ nhất, tuy bất cân xứng vì Ngài giàu có nên
tuôn đổ không tính toán; nhưng không vì thế mà lòng thương xót ấy cho phép ta
thụ động, ỷ lại, lười biếng, vô trách nhiệm. Trái lại, nếu ta ngoan cố không cộng
tác, nếu ta chỉ phó mặc buông thả, nếu tâm hồn vô cảm, trơ như đá thì lòng
thương xót ấy sẽ không thấm nhập được vào đời ta; bởi những thái độ tiêu cực
trên đã khoá kín cửa lòng, không cho tâm hồn tiếp nhận lòng thương xót. Khi mời
gọi ta đừng xét đoán, đừng lên án, đừng ích kỷ nhưng biết cho đi, Đức Kitô đặt
vào tay ta chìa khoá của chính cửa lòng ta. Nhờ những chìa khoá này mà cánh cửa
tâm hồn ta không bị khép kín, đóng chặt để Thiên Chúa ghé vào và ở lại được. Những
chìa khoá cho phép ta mở cửa lòng mình để lòng thương xót Chúa vào được cũng
chính là chìa khoá để ta mở cửa lòng thương xót Chúa. Cùng một chìa nhưng mở được
cả hai tâm hồn: tâm hồn bé nhỏ của ta và tâm hồn vĩ đại, bao la của Thiên Chúa.
Cùng một chìa nhưng mở được cả hai lòng: lòng thương xót nghèo nàn của ta và
lòng xót thương giàu có của Thiên Chúa. Cùng một chìa nhưng mở được cả hai kho
tàng: kho tàng lòng ta bé bỏng, nông cạn và kho tàng tình Chúa bao la, sâu thẳm.
Mùa
Chay không những nhắc nhở khế ước thương xót giữa Thiên Chúa và con người mà chỉ
một bên có lợi là chúng ta; Mùa Chay còn nhắc khế ước ấy phải được thực hiện
theo kiểu của Thiên Chúa, có nghĩa là thứ tha không chỉ một lần nhưng là bảy
mươi lần bảy: tha mãi tha hoài, tha cho đến chết, chết rồi vẫn rộng lượng thứ
tha (Mt 18,21-22); là xót thương khi quảng đại, vô tư tha nợ như ông chủ đã xót
thương gia nhân mà tha hết cho anh món nợ lớn (Mt 18,27); là xót thương như
Thiên Chúa, Đấng đã đến thế gian để cứu chữa chứ không để luận phạt (Ga 3,17).
Được như thế, Mùa Chay sẽ trở thành Mùa Chay thánh vì có lòng thương xót của
Chúa trải kín trên con người và có tình chia sẻ, xót thương của con người phủ
che nhau. Chỉ lòng thương xót mới là dấu chỉ sự thánh thiện của Thiên Chúa,
cũng như chỉ lòng xót thương mới là chìa khoá để mở kho tàng thánh thiện nơi
Thiên Chúa và mở cõi lòng nhỏ bé nhưng luôn cần Chúa thương xót của ta.