Những tuần lễ qua, trên mạng xã hội, người
ta xôn xao bình luận về chuyện “oan gia trái
chủ” ở chùa Ba vàng, Qủang Ninh, và dư luận
thuận chiều, nghịch chiều đã không mệt mỏi xoay quanh đề tài mê tín rất nóng và
thời sự này.
Thực ra, mê tín không được các tôn giáo chính danh công nhận hay
tham gia, khuyến khích, ủng hộ bao giờ. Trái lại, mê tín, dị đoan đứng đầu danh
sách bị loại bỏ và bị coi là tai họa đối với niềm tin tôn giáo. Hai tôn giáo lớn
ở Việt Nam là Phật giáo và Thiên Chúa giáo đều kêu gọi tín đồ, tín hữu của mình
xa tránh những tục lệ mê tín như cúng sao giải hạn, xin xăm, bói toán, kiêng kị,
gieo qủe, lên đồng, gọi vong …
Trước hết, “đạo
Phật không mê tín, dị đoan, vì giáo lý nhà Phật phủ nhận tất cả thần linh, và
ngay cả Thượng Đế ; đồng thời đặt chính con người là trọng tâm, cứu
cánh : con người tự giải thoát mình, không dựa vào thần thánh, không cậy
vào người khác ‘cầu thay nguyện giúp’, bởi tất cả đều do Nghiệp mình đã tạo. Người khác
cùng lắm cũng chỉ phụ được một chút rất nhỏ, không mang tính quyết định”.
“Chính
vì phủ nhận vai trò của thần thánh, nên Phật giáo không tìm đến sức mạnh của thần
linh, và nếu không cần đến thần linh, thì tại sao phải tin để rồi có tình trạng
dị đoan, mê tín ?”.
“Những việc
làm được coi là mê tín trong Phật giáo chỉ là tập tục đến từ văn hoá Trung Hoa,
và vì tôn trọng nền văn hóa, nhà Phật đã làm ngơ…Một thí dụ về tập tục đốt hình
nhân khi an táng người chết : Ngày xưa trong xã hội Trung Hoa, khi người
chủ chết thì các nàng hầu phải “chết theo” để tiếp tục hầu hạ ông chủ ở bên kia thế giới.
Thấy cảnh phải “chết theo” kinh hoàng, thương tâm và phi nhân qúa, các thầy
trong Phật Giáo Trung Hoa mới nghĩ ra cách dậy cho các tín đồ thay vì người thật
phải chết theo, thì làm những hình nộm bằng giấy, rồi đốt, làm như đã có
người chết theo rồi…”
“Cũng
trong ý tưởng về mê tín, Hoà thượng Thích Thanh Từ trong “Một số thái độ sai lầm của phật tử” đăng trong “Phật
giáo trong mạch sống dân tộc” ở mục 2 :
“Tin Phật như tin thần linh”. đã viết : “Người
bình dân đến với đức Phật để cầu ban phước, che chở, ủng hộ hơn là tìm giác ngộ
… Quan niệm Phật như vị thần linh chỉ coi việc ban phước, giáng họa; vì vậy,
người ta không ngại gặp Phật thì cúng, gặp thần thì lậy, gặp qủy thì cầu xin. Bởi
trên cương vị ban phước, giáng họa, họ không phân biệt đâu trọng đâu khinh, miễn
vị nào đem lại được những điều cầu nguyện của họ là linh thiêng, bằng không thì
hết linh ứng. Hết linh ứng thì họ bỏ không theo nữa, dù Phật cũng thế. Do đó,
trong dân gian những cốt Cô, cốt Cậu đã báo cho họ những tai nạn sắp đến và đã
cho họ bùa chú để họ dán trong nhà khiến con cháu mạnh giỏi, làm ăn phát đạt.
Niềm tin Phật như vậy, họ rất dễ tin mà cũng rất dễ bỏ, nếu một sở nguyện được
thành, hoặc không toại nguyện”.
“Có những
người đến với Phật không do hiểu Phật pháp mà nhờ ông Đồng, bà Cốt mách phải
quy y Phật sẽ khỏi tai nạn chẳng hạn, họ liền lên chùa xin quy y. Hoặc có người
do xin xăm hay bói qủe, trong xăm qủe dậy theo Phật hay thờ Phật thì mọi sự được
an lành…, họ liền phát nguyện quy y Phật. Hoặc vị trụ trì có học bùa chú trừ
ma, yếm qủy, ngừơi có con bệnh đến nhờ thầy trị chữa, nếu con lành bệnh liền
xin quy y Phật” (trích Jorathe Nắng
Tím, Phật Giáo và Công Giáo, NXB Tôn Giáo, 2014, tr.46-47).
Một
bài viết đăng trên tạp chí “Thằng Mõ”, số tháng Giêng 2019, tại Mỹ của thầy Thiện Ý,
khi bàn về hủ tục cúng sao dịp đầu xuân. Tác giả đã nêu lên tục “cúng sao giải hạn”
là một trong rất nhiều hủ tục mê tín, đồng thời xác quyết giáo lý Nhân Qủa của
Phật giáo không dính dáng gì đến chuyện mê tín, dị đoan:
“Rõ
ràng tục cúng sao hạn không phát xuất từ đạo Phật… Quan niệm này là trên trời
có 24 ngôi sao do 24 vị thần chủ có ảnh hưởng đến số phận con người, trong đó 9 ngôi sao
sáng sẽ luân phiên chiếu mệnh mỗi năm. Đó là các sao La hầu, Thổ Tú, Thủy Diệu,
Thái Bạch, Thái Dương, Vân Hớn, Kế Đô, Thái Âm, Mộc Đức. Chín vì sao này hay
còn gọi là Cửu Diệu là các sao phối trí theo các phương, sắp xếp theo 12 chi và
ngũ hành. Trong chín ngôi sao này, có sao tốt, có sao xấu. Nhưng phần nhiều,
không ai nghe nói nhiều đến sao tốt mang đến điềm lành gì cả, mà chỉ nghe những
tiêu cực, đáng sợ của những ngôi sao xấu. Đầu năm mới, ai bị sao xấu chiếu mệnh,
người này sẽ gặp phải chuyện không may, tai nạn, ốm đau, bệnh tật …”
“Những
hủ tục, dị đoan khiến mình thêm âu lo vì năm mới đến thay vì bồng ông Phúc vào
nhà thì mình lại hoảng sợ vì bị sao xấu chiếu mệnh. Sáng mồng một mình đã vội
vã đi chùa, đi miếu dâng sớ cúng sao vì sợ nếu không làm kịp, các hung tinh sẽ
giáng họa lên gia đình, hay chính bản thân. Nỗi sợ hãi đã khiến cho nhiều gia
đình không đón xuân một cách trọn vẹn vì lòng luôn nơm nớp lo sợ”.
“Là người
con Phật, chúng ta phải triệt để không tin theo những hủ tục, mê tín dị đoan,
buôn thần bán thánh. Vì luật nhân qủa, nghiệp báo và phứơc báo đều do chính
mình gây tạo và cũng do chính mình thụ hưởng. Phật dậy rằng : Không một vị
trời thần nào có quyền năng thưởng phạt, hay làm giảm thiểu những tội phước
mình đã tạo ra. Thay vào tiền tài, vật thực dâng cúng cho các hung tinh, mình
có thể làm phước, bố thí cho những kẻ bất hạnh, nghèo cùng rồi hồi hướng công đức
lành này cầu cho gia đình được hưởng một mùa xuân an lành, hạnh phúc… Cầu bình
an đầu năm không có nghiã là đi cúng sao hạn để được tai qua nạn khỏi, mà là
gia đình nhắc nhau nhân đầu xuân mới lễ Phật, tụng kinh tự mình làm mới, tạo
thêm phước lành, tránh làm điều xấu ác, tu thân tích đức để nhờ công đức này,
gia đình đuợc an vui, hạnh phúc suốt năm. Đó mới đúng theo luật nhân qủa :
Tạo nhân lành sẽ hưởng qủa lành là vậy !”.
Bên cạnh Phật giáo là Thiên Chúa giáo với
giáo lý cấm mê tín dị đoan được ghi rõ trong sách Giáo Lý Công Giáo như
sau :
“Mê tín là lệch lạc trong tâm tình tôn
giáo và trong cách thể hiện tâm tình này. Mê tín cũng có thể xẩy ra khi chúng
ta thờ phượng Thiên Chúa chân thật, ví dụ như gán một ý nghiã ma thuật cho một
số thực hành vốn chính đáng hay cần thiết. Nếu cho rằng chỉ cần đọc các lời
kinh hay làm các dấu chỉ bí tích là có hiệu qủa, bất chấp những tâm tình phải
có bên trong, người ta rơi vào mê tín (x. Mt 23,16 – 22)” (Khoản 2111, Sách Giáo Lý Công Giáo).
“Thiên
Chúa có thể cho các ngôn sứ hay các thánh nhân biết về tương lai. Tuy vậy, thái
độ đúng đắn của Kitô hữu là phó thác hoàn toàn trong tay Chúa Quan Phòng những
gì thuộc về tương lai và từ bỏ mọi thứ tò mò thiếu lành mạnh trong lãnh vực
này. Thế nhưng, ai không tiên liệu là người thiếu trách nhiệm” (khoản 2115 SGLCG).
“Phải
loại bỏ mọi hình thức bói toán : cậy nhờ Xatan hay ma qủi, gọi hồn người
chết hay những cách khác ngỡ rằng sẽ đoán được tương lai (x. Đnl 18, 10 ;
Gr 29,8). Coi tử vi, chiêm tinh, xem chỉ tay, giải điều mộng, xin xăm, bói toán
qúa khứ vị lại, đồng bóng là những hình thức che giấu ước muốn có quyền trên thời
gian, trên lịch sử và trên cả con người, cũng như ước muốn liên kết với các thế
lực huyền bí. Điều này nghịch với lòng tôn kính và thần phục chỉ dành cho Thiên
Chúa” (Khoản 2116 SGLCG).
“Ai muốn
dùng ma thuật hay phù thủy để chế ngự các thế lực huyền bí, bắt chúng phục vụ
mình và nắm được quyền lực siêu phàm trên người khác dù là để chữa bệnh, cũng lỗi
nặng nhân đức thờ phượng. Các việc này càng đáng lên án hơn nữa khi có dụng ý hại
người, hay nhờ đến sự can thiệp của ma qủi. Mang bùa cũng là điều đáng trách.
Chiêu hồn thường đi kèm cả bói toán hay ma thuật. Hội Thánh cảnh giác các tín hữu
phải xa lánh các điều ấy. Khi dùng các phương thuốc gia truyền không được kêu cầu
các thế lực ma qủi cũng như lợi dụng sự nhẹ dạ của người khác” (Khoản 2117 SGLCG).
Như thế, chúng ta không còn lý do nghi
ngờ hay chụp mũ các tôn giáo là mê tín, hoặc chủ trương, dung dưỡng các hoạt động
mê tín, dị đoan, nhưng loại trừ hẳn não trạng : tôn giáo làm mê muội tín đồ
bằng các thủ đọan mê tín, dị đoan, buôn thần bán thánh.
Để nắm vững vấn đề, thiết tưởng chúng ta
cần phân biệt rõ hơn giữa niềm tin và mê tín :
1.
Niềm
tin tôn giáo đòi hiểu biết, trong khi mê tín là kết qủa của mê muội :
Bất cứ niềm tin nào cũng đòi hiểu biết,
nghiã là trong niềm tin, lý trí làm công việc tìm lý do khả tín của mình để niềm
tin có một nền tảng “đáng tin”.
Người tín hữu theo một tôn giáo là dấn
thân tin một Đấng được tôn giáo ấy giới thiệu, loan truyền, làm chứng, nên
không ai có thể tin nếu không biết về Đấng mình tin, và chỉ tin khi lý trí người
tín hữu chấp nhận những điều nghe kể về Đấng ấy là đáng tin, những chứng cứ về
Đấng ấy là khả tín, nghiã là không phi lý, hay ngược lại suy tư, luận lý tự
nhiên, bình thường.
Mê tín thì ngược lại, khi người ta không biết
gì, hoặc biết rất ít, rất mơ hồ về người và điều mình tin, nhất là những điều
này không có nền tảng để có thể tin
đươc, vì phi lý và tự thân mâu thuẫn.
Thầy Thiện Ý trưng dẫn cái phi lý của chuyện
cúng sao giải hạn như sau : “Hủ tục mê
tín dị đoan đẵ làm tốn phí không biết bao nhiêu tiền của và những lo sợ vô lý,
viển vông. Xin hỏi hiện dân số toàn thế giới là khoảng trên bảy tỉ (theo thống
kê ngày 12 tháng 3 năm 2012 của văn phòng thống kê Hoa Kỳ - USCB), chia đều ra
theo chín ngôi sao chiếu mệnh, thì kết qủa có khoảng 777 triệu người trên thế
giới có cùng một ngôi sao chiếu mệnh trong một năm ! Nếu chỉ tính dân số
nước Việt Nam là 88 triệu, thì có khoảng 9 triệu 700 ngàn người Việt trong nước
có cùng một sao chiếu mệnh ! !!
Nhưng thử nhìn con số trên đây, chúng ta có thể tưởng tượng được rằng có
chừng ấy người (777 triệu) sẽ phải chịu tai họa giống như mình trong một
năm ; và năm sau cũng chừng ấy người chịu tai họa cho năm kế tiếp vì sinh
nhằm sao xấu !”. Thưc là điều phi lý
không thể hiểu nổi.
2.
Niềm
tin tôn giáo đòi yêu mến, tin tưởng, khác với mê tín mang nặng lo âu, sợ
hãi :
Đức Tin luôn mang lại niềm vui, vì khi tin,
ngừơi tín hữu hay tín đồ hạnh phúc vì biết mình được yêu bởi Đấng mình đã tin và
yêu mến. Không ai có thể tin người mình không yêu mến, cũng như không ai có thể
yêu mến người mình không tin. Tin và yêu sánh đôi với nhau, nên có tin là có
yêu, có yêu mới tin được, và người tin luôn là người hạnh phúc vì yêu và được
yêu.
Niềm tin tôn giáo là gắn bó thiết thân giữa
cá nhân mỗi người với Đấng siêu nhiên. Gắn bó thiết thân ấy chính là tình yêu
và lòng tin tưởng, nên niềm tin không bao giờ sợ hãi, khác với mê tín đầy ắp lo
âu, sợ sệt, vì chỉ có đe dọa, và vắng bóng tín nhiệm, yêu thương.
Nhưng tại sao có sự khác biệt này giữa người
có đức tin và người mê tín ?
Thưa vì người có đức tin tin vào Đấng thương
mình, tin ở Đấng có quyền năng nhưng nhân hậu luôn cứu giúp mình, trong khi người
mê tín tin vì sợ hãi một sức mạnh không tên, một thế lực vô danh, một khuôn mặt
bí ẩn luôn soi bói, rình rập, một bàn tay uy lực, nhưng tàn ác, nên tin của mê tín là tin vì bị đe dọa,
tin vì sợ tai hoạ, tin để tránh bị trừng phạt, báo oán, chứ không tin vì yêu, tin vì hy
vọng, tin vì ký thác vào tình thương, và lòng nhân hậu của Đấng quyền năng,
nhưng tốt lành, nhân ái, như tín hữu Kitô giáo tin Đức Giêsu là Thiên Chúa giầu
lòng thương xót, chậm bất bình và rất đỗi khoan dung, và tín đồ Phật giáo tin ở
Đức Thích Ca Mâu Ni là người đắc đạo và đầy lòng từ bi, hỉ xả, thương yêu, giúp
đỡ.
3. Niềm tin tôn giáo không
mua bán, trao đổi bằng vật chất như mê tín :
Nói đến niềm tin, đức tin, tôn giáo nào
cũng trân trọng như giá trị tuyệt đối linh thiêng, nên không thể dùng vật chất
để trao đổi, mua bán niềm tin, đức tin. Người tín hữu, tín đồ tin yêu Đấng giáo
chủ của mình với tâm hồn trong sáng, với trái tim tinh ròng nồng nàn, và sự gắn
bó giữa tín đồ, tín hữu với Đấng thiêng liêng là một tương quan nội tâm, thánh
thiện.
Vì thế, khi có hoạt động “buôn thần bán thánh”,
tức trao đổi bằng vật chất như tiền bạc, của cải giữa thần thánh và con người
thì đức tin không còn, và niềm tin biến thành mê tín, bởi ơn lành, phúc trọng
nhận được từ Đấng thiêng liêng là ơn được ban “nhưng
không”, nghiã là ban vô điều kiện, khi con
người cầu xin Đấng mình tin yêu với lòng thành.
Khác với mê tín, ở đó, người mê tín đi mua
sự may mắn, trao đổi với Sức Mạnh huyền bí bằng tiền bạc, của cải để thoát khỏi
tai họa, nguy hiểm nào đó, và đạt được điều mong ước. Vì thế, bất cứ hành vi mê
tín nào cũng nại đến vật chất, cũng đòi phải trả tiền, trả công, trả ơn quyền lực
huyền bí qua người trung gian. Đó là lý do người ta lợi dụng nhiều người nhẹ dạ,
cả tin để lừa tiền, gạt của, khi tự cho mình là người biết được ý Trời, nghe được
tiếng của thần thánh, khi có người đến hỏi về tương lai, vận mệnh, hoặc xin ơn
này, ơn nọ.
4. Niềm tin là chọn lựa tự
do của người trưởng thành, không nhẹ da, cả tin như mê tín :
Đức
tin là sự sống của người tín hữu và đức tin ấy, niềm tin tôn giáo ấy đi với người
tín hữu, tín đồ suốt hành trình cuộc đời của họ. Vì thế, đức tin lớn lên với
thăng trầm của cuộc sống, với niềm vui, nỗi buồn từng ngày, với gian khó, thử
thách của hoàn cảnh, và tương quan ở mọi chiều kích.
Vì thế, sẽ không có đức tin nhẹ tênh, dễ
dãi, nhưng đức tin nào cũng trầy trụa trải nghiệm vất vả, hy sinh ; niềm
tin nào cũng rướm máu vì vượt qua nhiều chướng ngại thách đố, nên người tin sẽ
là người trưởng thành, vì tự nguyện chọn lựa, tự ý dấn thân, tự do lên đường,
và không hề bị ai dụ dỗ, áp lực. Đây chính là sự khác biệt giữa người tín hữu,
tín đồ và người mê tín. Người có đức tin là người trrưởng thành khi đóng chặt
niềm tin của mình vào Đấng là Sự Thật, và là Đường, trong khi người mê tín
không biết ai thật, giả, điều gì đáng tin hay không đáng tin, nhưng cả tin, nhẹ
dạ, để mình bị rủ rê, mua chuộc, tán tỉnh đi vào đường mê tín.
5. Niềm tin mang tính hiệp
thông, khác với mê tín là hành vi cá nhân và biệt lập :
Đức Tin của tôn giáo chính danh nào, ngoài
tính cá nhân, cũng mang tính cộng đoàn hiệp thông, nghiã là cùng tin với những
người tin khác, cùng chia sẻ niềm tin với cộng đồng, “đồng
lao cộng khổ” vì lợi ích chung, sẵn sàng hy
sinh cho hạnh phúc của mọi người, và tương thân tương trợ trên hành trình đức
tin.
Khác với mê tín luôn là hành vi cá nhân,
biệt lập, không dính dáng, quan tâm đến người khác, không can dự đến cộng đồng
xã hội, vì chỉ nhắm mục đích phục vụ lợi ích cá nhân, tìm giải quyết nhu cầu riêng
tư, nên mê tín luôn mang tính ích kỷ, đóng khung, khép kín, hạn hẹp, biệt lập,
nhất là không minh bạch và không thể chia sẻ, hiệp thông.
6. Niềm tin làm con người hạnh
phúc vì được yêu và bình an ; mê tín làm con người bất hạnh vì bị đe dọa
và sợ hãi :
Muốn biết một người có đức tin đích thực,
có niềm tin chân chính, chúng ta chỉ cần nhìn xem họ có hạnh phúc, bình an hay
không ? Người có đức tin không thể là người buồn sầu, thất vọng, chán đời,
không muốn sống, vì đức tin là nguồn vui, ơn bình an, là lẽ sống cho đời người
hạnh phúc. Người tín hữu Thiên Chúa giáo tìm đến Thiên Chúa là niềm vui của họ,
vì Thiên Chúa yêu thương và cứu độ họ, vì Thiên Chúa nhân hậu và bao dung tha
thứ cho họ mọi lỗi lầm, vì Thiên Chúa là gia nghiệp, phần thưởng, thirên đàng của
họ ; cũng như người con Phật tìm đến cửa Phật để được thư thái, bình an.
Khác hẳn niềm tin đem lại bình an nội tâm,
và niềm vui sống với mọi người, với cuộc đời, mê tín chỉ đem lại bất hạnh, vì
triền miên bị những đe dọa của tai ương đeo bám, bị thần thánh đe loi trừng phạt,
bị vong hồn từ bao đời oan nghiệt đòi nợ, trả thù, báo oán. Người mê tín không
khác người nghiện xì ke, ma túy, khi hoàn toàn lệ thuộc vào những “phán quyết tào lao, đồng bóng” của người tự nhận là sứ giả, phát ngôn của thần
thánh. Họ mất hẳn tự tin, vì không còn bản lãnh và tinh thần độc lập, tự quyết ;
họ tha hoá tận cùng khi không còn ý chí quyết định và họ bất hạnh hơn tất
cả những người bất hạnh khác, vì phải sống trong đe dọa, sợ hãi, lo âu. Những
lo sợ này do người trung gian giữa “thần
thánh” và họ tạo ra để giữ họ làm con
ti ; những đe dọa làm hoang mang, hỏang lọan, mất tinh thần là khí giới “thần sầu qủy khốc”
và độc chiêu được những tay lừa đảo, “buôn
thần bán thánh” sử dụng để làm tiền. Và những
người trót rơi vào vực thẳm mê tín đã vô phúc trở thành nạn nhân đáng thương của
những chiêu trò bịp bợm tinh vi và phi nhân luôn tìm đánh vào những người có
tâm lý non nớt, bất ổn.
Tóm lại, đức tin hay niềm tin tôn giáo
luôn mang tính tự do, hiểu biết, bền bỉ, trưởng thành, hy sinh, minh bạch, khai
phóng, vô vị lợi, không ích kỷ, không loại trừ, bình an và hạnh phúc. Trái lại,
mê tín bị bao vây bởi mê muội, áp lực, khống chế, giai đọan, nhất thời, cá
nhân, ích kỷ, khép kín, lọai trừ, giấu diếm, không minh bạch, dùng vật chất để
mặc cả, đổi chác, bị đe dọa, sợ hãi, lệ thuộc, không bình an, và bất hạnh.
Cám
ơn Bạn đã đón nhận những chia sẻ. Người viết hy vọng đã đóng góp chút ánh sáng
để làm sáng tỏ niềm tin và cảnh giác tình trạng mê tín ngày càng lan rộng, khi
điều kiện sống ngày càng khó khăn, xã hội ngày càng nhiều vấn đề, bởi mê tín có
nhiều cơ hội tung hoành, quậy phá khi con người hoang mang, lo sợ, mất phương
hướng, mất niềm tin trước những thử thách tưởng không thể vượt qua.
Ước mong niềm tin và niềm vui luôn đồng
hành với Bạn, và mê tín không bao giờ “có cửa” bước chân vào nhà Bạn.
Jorathe Nắng
Tím