Pages - Menu

Thứ Tư, 29 tháng 5, 2019

Đời Này, Đời Sau



   "Sống không lo sống mà cứ lo về trời". Nhiều người trách tín hữu Thiên Chúa giáo như vậy khi cho rằng những người này sống bay bổng, không tưởng, không thực, viển vông, xa rời đời thường, chưa kể có người còn lên án tín hữu Thiên Chúa giáo là đám chán đời, khinh đời, ghét đời, thù đời, bởi cứ mở miệng là gán cho thế gian tất cả những gì tiêu cực, xấu xa và nguầy nguậy lắc đầu tỏ ý xa lánh đời này và chỉ mong sớm được về Thiên Đàng, đời sau. 
  Có thực như thế không ? 
  Chắc chắn là không, bởi chỉ một lý do duy nhất "Thiên Chúa đã yêu thương loài người đến nỗi đã ban Con Một của Người cho thế gian" (1Ga 4,9) và "Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta" (Ga 1,14) cũng đã đủ chứng minh người đi theo Đức Giêsu không thể là người chán đời, hay xa lánh người đời, cuộc đời, trái lại, họ phải yêu cuộc đời này như Thiên Chúa đã yêu, gắn bó với kiếp làm người như Thiên Chúa đã gắn bó và tự nguyện chọn cho mình kiếp người, đồng thời luôn vui sống với mọi người và cùng mọi người bước đi trong niềm vui của Thiên Chúa, Đấng  có tên  là "Emmanuel - Thiên Chúa ở cùng chúng tôi" . 
  Thực vậy, Thiên Chúa đã bỏ trời xuống thế làm người vì yêu con người, lẽ nào người đi theo Thiên Chúa lại trốn tránh cuộc đời, không muốn làm người và ghét bỏ mọi người ? 
   Thiên Chúa đã làm người như mọi người, và ở giữa mọi người, lẽ nào môn đệ của Thiên Chúa lại khước từ ơn huệ làm người, và không chấp nhận sống với anh em ? 
    Thiên Chúa đã đến để yêu thương con người và không muốn mất một con người nào, cớ sao những người chọn Thiên Chúa là "Đường, Sự Thật và Sự Sống" lại chủ trương ganh ghét, hận thù, hủy diệt đồng loại ? 
   Thiên Chúa đã đến trong cuộc đời mỗi người để yêu họ đến cùng và ban cho họ hạnh phúc ngay ở đời này khi an ủi, chúc phúc, chữa lành tật bệnh hồn xác, lẽ nào người thuộc về Thiên Chúa lại phủ nhận giá trị của đời sống hôm nay, hạnh phúc phải tìm kiếm cho nhau "ở đây và lúc này" ? 
   Thiên Chúa đã đến và chia sẻ trọn vẹn cuộc sống của con người với tất cả hoàn cảnh, tình huống, điều kiện nhân sinh, lẽ nào người đứng chung chiến tuyến với Thiên Chúa lại so đo, do dự, ngần ngại trước lời mời dấn thân, nhập cuộc, lên đường với mọi người ? 
    Thiên Chúa đã đến để phục vụ con người vì hạnh phúc của con người, không lẽ người môn đệ của Thiên Chúa lại thoái hoá biến thành kẻ thù của nhân loại cách này hay cách khác ? 
  Thiên Chúa đã đến và hiến mạng sống cho mọi người, lẽ nào người đi theo Thiên Chúa không nhận ra, hay cố tình không nhìn nhận giá trị vô giá của con người, của mỗi người được Thiên Chúa tạo dựng vì yêu thương ? 
   Thiên Chúa đã dong duổi với mọi tầng lớp, mọi thành phần, mọi khuynh hướng, quan điểm trên hành trình nhân loại, lẽ nào người chọn Thiên Chúa là "Đấng chăn nuôi tôi và tôi chẳng thiếu thốn gì" lại phân biệt kỳ thị, phân ranh vùng miền, phân chia giai cấp, phân  hoá cộng đoàn vì ích kỷ, bon chen, quyền lực, tham vọng bất chính? 
   Và cũng vì trần gian được chọn làm nhà của Thiên Chúa, quê hương của Thiên Chúa, nên dù đường trần có chông gai, gập ghềnh, quanh co, trắc trở đến đâu, bước chân người đi theo Chúa vẫn nở hoa rực rỡ; dù biển đời có sóng gió, nguy hiểm cỡ nào, tâm hồn người môn đệ vẫn hân hoan "ra sâu, ra xa" thả lưới, vì trên đường đời luôn có Chúa đồng hành và giữa biển đời luôn có Chúa cùng thuyền ra khơi. 
   Vì thế, đã là người theo Chúa, chúng ta không thể khinh đời, chán đời, ghét người, tẩy chay người vì Chúa đã yêu thương con người vô cùng và ở trong thế giới này với con người đến tận cùng thời gian trong bí tích Thánh Thể. Và cuộc đời của người tín hữu ở trong Thiên Chúa chính là sống ơn gọi làm người yêu thương và được yêu thương; là bước đi với Đức Giêsu trên hành trình đến với anh em để yêu thương và phục vụ; là thực hiện giới luật mới "hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" của Thiên Chúa làm người, để rồi cuộc sống dương thế có Thiên Chúa đồng hành được tràn đầy ý nghĩa, giá trị và niềm vui cứu độ. 
     Cuộc đời Kitô hữu chan chứa hạnh phúc được sống để yêu thương ấy sẽ nối dài sang cuộc sống đời đời, bất tận khi chính Thiên Chúa trở lại để đón vào vương quốc vinh quang của Ngài, như Đức Giêsu đã cho thấy và nghe trước lời mời gọi âu yếm của Thiên Chúa trong ngày chung thẩm: "Hỡi những người được Cha Ta chúc phúc, hãy vào hưởng vương quốc Cha Ta đã dọn sẵn cho các ngươi" (Mt 25,34). 
  Sở dĩ được đứng vào hàng ngũ những người được Thiên Chúa chúc phúc vì họ đã yêu mến cuộc đời, yêu mến con người và xả thân làm cho cuộc đời đẹp hơn, con người hạnh phúc hơn, để Thiên Chúa được vinh danh hơn, bởi "hạnh phúc của con người là vinh danh của Thiên Chúa". 
   Tin Mừng Luca (24, 50-51) ghi lại quang cảnh Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người về trời trước mặt các môn đệ là bảo chứng hạnh phúc thiên đàng Thiên Chúa dành sẵn cho những ai sống yêu mến trong cuộc đời này, đồng thời là nền tảng cho niềm tin của chúng ta: ở cuối hành trình ơn gọi làm người, chúng ta sẽ được thấy Thiên Chúa. Chính Ngài sẽ đón vào nhà Ngài, như Đức Giêsu đã quả quyết : "Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở... Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó" (Ga 14,2-3), bởi đời này là hành trình gieo vãi và vun trồng yêu thương, đời sau là quê hương, nơi chúng ta tất cả được trở về đoàn tụ như "người gieo trong nước mắt nay trở về trong hoan ca, vai nặng gánh lúa vàng" 
(Tv 126,6). 

   Jorathe Nắng Tím

Thứ Tư, 22 tháng 5, 2019

CHÚA THÁNH THẦN LÀ THẦY DẠY

            Suy Niệm TIN MỪNG CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH, Năm C
 Ai đã là học trò đều hiểu nỗi vất vả, khó nhọc phải học bài, ôn bài trước mỗi kỳ thi. Sĩ tử phải ép mình, bó cẳng, ngồi yên một chỗ cặm cụi ôn lại cả đống sách giáo khoa dầy cộm, nhồi nhét vào đầu từng chồng vở ghi chép bài đã học, để đối phó với đề thi, với  hy vọng trúng tủ trộn chung nỗi lo rớt đài, đạp vỏ chuối.
Sở dĩ có nỗi khổ phải ôn bài, học bài, vì bộ nhớ của con người có giới hạn, nên nhiều chuyện, nhiều việc, nhiều sự kiện bị quên đi không chỉ với thời gian, mà còn vì nhiều ký do khác nữa, nên để nhớ, người ta phải ôn lại, nhắc lại, tìm lại trong ký ức. Chẳng thế mà châm ngôn thành công của đời học trò là văn ôn, võ luyện, nghiã là đã học thì dù văn chương hay võ nghệ, toán học hay sử địa, lý hóa hay sinh vật, cả đến các môn chơi như bơi lội hay chạy đua, cầu lông, bóng đá, tất cả đều phải tuân theo một nguyên tắc vàng : ôn tập, học bài, thường xuyên luyện tập.     
Tin Mừng Gioan chương 14 vẽ lên hình ảnh Thiên Chúa là người thầy tuyệt vời khi dạy chúng ta : Thiên Chúa giàu lòng thương xót đã sai Con Một xuống thế gian để cứu độ nhân loại bằng tình yêu chết cho người mình yêu. Tình yêu vô cùng ấy đi đến tận cùng của thời gian và tận cùng của yêu thương là tha thứ cho cả những kẻ làm khổ và đóng đinh mình.  
Ngài còn dạy chúng ta : ơn cứu độ không đơn phương áp đặt đối tượng là con người, nhưng Thiên Chúa tôn trọng tự do của mỗi người mà Ngài cứu độ, khi mời gọi con người đáp trả tình yêu cứu độ bằng chấp nhận đi vào vùng phủ sóng của tình yêu Thiên Chúa khi thực hiện giới luật yêu thương anh em mình như Thiên Chúa đã yêu thương. Đây là phần đóng góp cần thiết của con người, trách nhiệm cộng tác của người được yêu thương, nghiã vụ không thể thiếu sót của phận người được thương xót, như người đầy tớ kia trong Tin Mừng Mátthêu chính ra đã phải chạnh lòng xót thương và tha món nợ cỏn con cho bạn mình, sau khi đã được ông chủ rộng lòng xót thương xóa trắng món nợ kếch xù (x. Mt 18,21-35).
Như thế, lời di chúc hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em (Ga 13,34) của Đức Giêsu, Ngôi Lời Thiên Chúa là bài học Chúa muốn chúng ta nằm lòng và đem ra thực hành trong đời sống, vì Ai yêu mến Thầy thì giữ lời Thầy, Ai không yêu mến Thầy thì không giữ lời Thầy (Ga 14,23-24). Và Lời Thầy cũng là bài học duy nhất Thiên Chúa dạy Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em (Ga 13,34).
Là người thầy từ tâm, nhân hậu, Đức Giêsu biết học trò hay quên học bài, hay học bài rồi quên, nên nhẫn nại chịu đựng những lơ đãng, biếng lười của con người. Bên cạnh là những ương ngạnh, ngông cuồng, kiêu căng, tham lam, ích kỷ, ganh ghét, đố kị, nghi ngờ làm lu mờ tâm trí khiến bài học tình yêu Chúa dạy không nhập tâm, không vào đời, không biến đổi đời sống, trái lại, vì quên nên tâm hồn câm điếc trước tiếng gọi của tình yêu không ngừng réo gọi, và trái tim chai lì, vô cảm, lạnh lùng, dửng dưng, xa lạ trước thiếu thốn, cơ cực của anh em.
Tình trạng trên là tâm hồn chúng ta, những học trò biếng nhác, lơ đãng, ngang ngược trong lớp học của Đức Giêsu, bởi ngay các tông đồ, là những học trò được ở bên Chúa, hằng ngày, hằng giờ được Chúa dạy dỗ, nhắc nhở cũng đã hay quên bài học hiền lành, khiêm nhường, nên đã khó chấp nhận những khác biệt giữa nhau, và không đón nhận những thành qủa tốt đẹp cũng như những khiếm khuyết, thiếu sót nơi anh em mình, để rồi hở ra là tranh chấp, đấu đá, kiện tụng, vì chỗ đứng chỗ ngồi, chức tước này, vị thế kia (x. Mt 20,20-28). Cũng như chúng ta, các vị hay quên lắm, nên mới ra nông nỗi kẻ chối Thầy, kẻ bán Thầy, kẻ bỏ Thầy, kẻ tháo chạy mất dép, tuột cả áo ngoài khi Thầy bị bắt, chỉ vì tất cả đã quên lời Thầy chỉ bảo, dặn dò trước đó.
Chính vì biết chúng ta chóng quên, hay quên bài học Yêu Thương là bài học duy nhất, giới răn duy nhất, con đường duy nhất Chúa dạy không chỉ vì trí nhớ có hạn, nhưng còn vì những cản trở, áp lực của Danh - Lợi - Thú và sức công phá dữ dội của thần dữ, nên Đức Giêsu, người Thầy tuyệt vời hay chạnh lòng bao dung, thương xót đã xin Chúa Cha sai đến cho thế giới Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều, và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em (Ga 14,27).  
Thực vậy, Chúa Thánh Thần hiện diện và hoạt động trong Giáo Hội trước hết  để dạy dỗ và làm nhớ lại bài học giới luật mới mà Đức Giêsu đã dạy các môn đệ và tất cả những ai đi theo Ngài : yêu thương như Thiên Chúa đã yêu thương.
Là bài học cho mọi người, vì bất cứ ai, bất kể trình độ nào cũng biết yêu thương là gì, biết yêu thương thế nào và có khả năng yêu thương đến tột cùng tuyệt vời của tình yêu. Là bài học dễ học cho mọi người, vì không gì đơn sơ, đơn giản hơn tình yêu, không gì dễ diễn tả, dễ bộc lộ, dễ biểu hiện, dễ thấy, dễ cảm hơn tình yêu. Là bài học hạnh phúc cho mọi người, vì tình yêu là quà tặng của Thiên Chúa cho tất cả mọi người, không trừ ai. Là bài học qúy gía cho mọi người, vì tình yêu là đại dương bao la mà ai cũng có quyền được bơi lội trong đó. Là bài học thiết yếu cho mọi người, vì Thiên Chúa đòi ở mỗi người duy nhất một đòi hỏi phải yêu thương anh em mình để được sống đời đời. Là bài học Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu, nên ai không yêu thương thì không sống với và sống trong Thiên Chúa, nhưng ở trong sự chết. 
Và bài học yêu thương tuy dễ hiểu nhưng khó thuộc và áp dụng ấy phải được ôn lại hằng ngày, thực tập liên lỉ, thao tác thường xuyên, thực hành không ngơi nghỉ với ơn của Chúa Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ luôn có mặt và ân cần nhắc nhở, giúp chúng ta nhớ lại những điều Đức Giêsu đã dạy được tóm tắt gọn nhẹ trong di chúc tình yêu của Ngài : Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em (Ga 13,34).
Lạy Chúa Thánh Thần là Tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con, xin dạy và làm cho chúng con nhớ lại bài học yêu thương Đức Giêsu đã dạy, để cuộc đời chúng con ngày càng đẹp hơn, ý nghiã hơn, đẹp lòng Chúa hơn trong hạnh phúc được Chúa yêu thương và niềm vui với ơn gọi, và sứ mệnh làm chứng Thiên Chúa là Tình Yêu khi hết tình yêu thương, và hết mình phục vụ mọi người.   
Jorathe Nắng Tím

Thứ Bảy, 18 tháng 5, 2019

“SỐNG VỚI”

https://www.youtube.com/watch?v=e_JtPnvr9XM
Sống là sống với vì ngay khi vào đời, con người đã sống với nhau, sống với những người khác đang sống cùng thời đại, bởi không ai có thể sống một mình tách biệt, đơn độc, mà không cần đến người khác để tồn tại và phát triển, vì con người là sinh vật xã hội, có nhu cầu sống chung, ở cùng.
Nhưng sống chung, ở cùng chưa hẳn đã là sống với, bởi sống với không chỉ là chung nhà, cùng xóm, chung mâm, cùng bàn, chung đường, cùng ngõ, mà còn là  chung lời chung tiếng, cùng một tấm lòng, chung nhịp đập của cùng một trái tim tình người.
Thực tế chứng minh điều trên khi ở cùng nhà mà như người xa lạ của cặp vợ chồng những ngày sát bờ vực thẳm đổ vỡ, chia tay. Họ tuy chung mái nhà, cùng một tổ ấm, nhưng không còn sống với khi trái tim im lìm, căng thẳng, lạnh lùng, xa vắng, hờ hững, dửng dưng. Bà con láng giềng cùng xóm, nhưng thực tế vẫn trăm năm cô đơn, hoang vắng, khi không ai nói với ai một lời, không ai rảnh rỗi chia sẻ buồn vui, nên có chung thôn, cùng xóm, chung đường, cùng ngõ người ta vẫn không sống với nhau, vì con tim còn e dè, khép kín, chưa thông thoáng, cởi mở. Bạn cùng lớp, cùng trường, cùng công ty, cùng xí nghiệp, tuy chung thầy, chung khoá, chung công tác, chung trách nhiệm, nhưng có khi mạnh ai nấy sống, thấy nhau hằng ngày vẫn là ngừơi dưng, mỗi người một góc nhỏ, mỗi người một góc trời, chưa một lần sống với.
Như thế sống với không chỉ là sống bên nhau, sống gần nhau, sống có nhau, nhưng trên hết và trước hết phải là sống trong mối tương quan đích thực của lòng nhân ái, sống niềm vui gặp gỡ giữa hai con người có tình người cho nhau, sống hạnh phúc liên đới của hai tâm hồn vừa cho đi vừa đón nhận, sống niềm thương nỗi nhớ của trái tim biết chạnh lòng, và thương cảm, đồng cảm với nhau trong gian truân, thử thách.
Nói tóm lại, sống với hệ tại ở tấm lòng người ta cho nhau khi sống chung, sống cùng, sống bên nhau ; sống với chỉ xuất hiện khi sống có tình, và sống với chỉ thực sự là sống với khi lẽ sống là yêu thương.
Sở dĩ người ta chỉ thực sự sống với nhau, trọn vẹn sống với nhau và sống với nhau hạnh phúc khi yêu thương nhau, bởi chỉ với tình yêu, người mới  gặp được người, con người mới gặp được nhau, bởi duy nhất tình yêu mới có khả năng đưa được người này vào nguồn cội và bản chất sâu sa của người kia, chỉ tình người mới có sức biến cái khác dễ ghét, dễ sợ nơi người khác thành dễ thương, dễ yêu, dễ cưng cho mình. Và chỉ với gặp gỡ trong nhiệm mầu của tình yêu này, con người mới đạt được khát vọng thầm kín, sâu thẳm của đời mình là hạnh phúc yêu và được yêu, bởi từ lẽ sống đến ý nghiã cuộc sống và cùng đích của đời sống, tất cả đều được đan dệt, hình thành và triển nở với tình yêu và cho tình yêu.
Vì tình yêu tiên thiên là lẽ sống, tình người sâu thẳm là nguồn sống, lòng nhân ái là sức sống mãnh liệt, và bác ái, vị tha cho đời người ý nghiã cao đẹp, chưa kể đến định mệnh đời đời của con người cũng sẽ được đánh giá, quyết định trên nền tảng và với thước đo tình yêu, nên tháo gỡ tình yêu khỏi công việc, con người sẽ chỉ còn là người máy trong một hãng sản xuất ; cởi bỏ trái tim ra khỏi sinh hoạt đời thường, đời sống con ngừơi sẽ buồn tẻ, vô vị, vô nghiã ; lấy đi tình người khỏi mọi tình huống, hoàn cảnh, con người sẽ đánh mất chính mình và giá trị cuộc sống làm người, bởi ra khỏi tình người, ở ngoài tình yêu, cắt bỏ trái tim, giết chết tâm hồn, con người không còn điểm chung gặp gỡ, không còn khả thể gặp gỡ, không còn động cơ đi tìm gặp gỡ là bước chân thứ nhất và quan trọng nhất đi vào đời sống với.
Là điểm chung để gặp gỡ, vì tình yêu là mẫu số chung mầu nhiệm của nhân loại, khi ai cũng biết yêu, có khả năng yêu, và hạnh phúc khi yêu và được yêu ; là điểm gặp gỡ tuyệt vời, vì tình yêu là ngôn ngữ chung của nhân loại, để mọi người hiểu nhau khi mở lòng cho nhau, và tận cùng chia sẻ, cảm thông khi trái tim được yêu thương nối kết.
Vì thế, con người chỉ đạt được hạnh phúc đích thực và viên mãn khi gặp được người khác trong tình yêu, người khác mà hằng ngày thấy mặt trong sở làm, ngay đầu ngõ, đối diện nhà, ở sát bên nhưng vẫn xa lạ, khô khan, lạt lẽo ; người khác, tuy cùng vùng miền, cùng trình độ, cùng đẳng cấp, kể cả cùng là đồng chí, nhưng sao vẫn thấy xa xôi, nghi ngại, gượng ép ; người khác tuy đồng trang lứa, cùng hoàn cảnh, nhưng sao vẫn phải dè chừng, đề phòng, tự vệ ; người khác tuy hàng tuần chén chú chén tôi rôm rả nói cười trong cơn say túy lúy, nhưng sao vẫn sượng sùng, giữ kẽ.
Qủa thực, khi con người không gặp được nhau ở tình yêu, tình người, lòng  nhân ái, vị tha, là điểm gặp cần thiết và bảo đảm, thì mãi mãi con người không thể hạnh phúc trong kiếp sống làm người, chỉ vì kiếp sống ấy tiên thiên đã đòi tình yêu phải là lẽ sống, tình yêu mới đem lại hạnh phúc, giá trị, ý nghiã đời người, và tình yêu mới thực là cùng đích của đời người.
Nhưng thế nào là sống với khi để tình yêu, tình người, lòng nhân ái được tham chiếu, tham dự trong sinh hoạt của xã hội loài người ?
Vì tình yêu đòi nhập cuộc, đòi đi vào con người sống động, đi vào đời người đang sống, đi vào từng đường gân thớ thịt của từng người, nên tình yêu có những bước đi rất cụ thể, chính xác, thiết thực, và kiên định :
1.   Bước thứ nhất của tình yêu trên hành trình sống với được cụ thể bằng tiên phong đến với người khác, qua thái độ kính trọng, cảm thông, và những lời chào thăm, chúc mừng, cám ơn, xin lỗi xuất phát từ tấm lòng.
Thực vậy, có lẽ vì hình dung  tình yêu bao la, mông lung do qúa vĩ đại, mà nhiều khi chúng ta đã bỏ lỡ những cơ hội cụ thể trong đời thường để gặp gỡ người chung quanh ; cũng có thể vì nhát gan, nên ta đã không dám liều mạng tiên phong làm người thứ nhất nở một nụ cười thân thiện, nói một lời chào thăm lịch sự, thân ái, hay gửi đến người khác một tâm tình yêu mến, ngưỡng mộ.
Với những việc làm cụ thể xuất phát từ tình người này, người người sẽ xích lại gần nhau hơn, đưa nhau về gặp gỡ đích thực là niềm vui của đời người được sống với.
2.   Bước thứ hai của tình yêu trên đường tìm về gặp gỡ phải thiết thực trên hai điểm nhấn : Bao dung và Quảng đại.
a.   Bao dung khi phải phân định, phán xét  theo nguyên tắc không lấy tội nặng nhất, lỗi lớn nhất của người bị khiển trách  làm chuẩn mực định lượng hình phạt, nhưng căn cứ vào  lỗi nhẹ nhất, tội ít nặng hơn cả, vì lòng bao dung  cho phép hiểu rằng : lỗi nặng, tội lớn chỉ là yếu đuối bất ngờ, sai phạm đột xuất, lầm lỗi nhất thời luôn đáng thứ tha.
b.   Quảng đại khi khen thưởng theo nguyên tắc chọn thành qủa lớn nhất, đức tính nổi trội, và công trình nhiều công sức hơn cả của đương sự.
3.   Bước thứ ba để tình yêu bền bỉ trước sóng gió là nhẫn nại chịu đựng :
Vì ai cũng là người khác đối với ta, nên không ai giống ta, cũng như không ai giống ai. Cái khác ở mỗi người tuy có làm cuộc sống thêm phong phú, đa diện, đa sắc, nhưng cũng là nguyên nhân gây nhiều trái ý, bực dọc, mâu thuẫn, đối kháng, và làm các tương quan, liên đới trở nên căng thẳng. 
 Đối diện với thách đố này, có người tìm cô tịch, thanh vắng để tránh đụng chạm ; có người chủ trương giữ khoảng cách  và áp dụng chiến thuật : không biết, không nghe, không thấy ; người khác xem tha nhân như thù địch, và cẩn mật thủ thân, đề phòng, dè dặt.
Mỗi người đều cho mình có lý khi chọn lựa. Vấn đề ở đây là hạnh phúc có đạt được trong những chọn lựa này hay không ? Thực ra, sống với là nhu cầu tiềm tàng  và âm ỉ thúc bách trong mỗi người, nên khi không được thoả mãn, con người không  hạnh phúc, vì phương án được chọn  không phù hợp với đòi hỏi của nhu cầu. Chính vì sống với là nhu cầu thiết yếu của con người và chỉ khi nhu cầu thiết yếu, căn bản được đáp ứng, con người mới đạt hạnh phúc viên mãn, nên bất cứ chủ trương, phương thức sống nào loại bỏ nhu cầu sống với sẽ đều thất bại và thất sách trong nỗ lực tìm kiếm hạnh phúc.
Vẫn biết tình yêu để tồn tại trong tương quan giữa những con người nhiều khác biệt luôn đòi nhẫn nại chịu đựng, nhưng sự nhẫn nại chịu đựng trong tình yêu không mang dáng dấp của hình phạt hay số phận nghiệt ngã, mà mang dấu ấn của tình yêu đích thực khi hy sinh chính mình cho người mình yêu, bởi tình yêu không thể thiếu hy sinh, nếu không sẽ chỉ là thứ tình qua đêm, qua đường, bông đùa, giả dối nào đó.   
4.   Bước thứ tư của tình yêu dẫn đến hạnh phúc sống với mọi người là kiên định trong lòng biết ơn :
Biết ơn là nét đẹp cao qúy cuả người đạo đức, có nhân văn, là hoa thơm trái ngọt cho đời, là niềm hãnh diện chung của cả nhân loại, nên chỉ người thiếu văn hoá mới vô ơn ; chỉ người thiếu khôn ngoan mới vô ơn, vì biết ơn là nguồn vui vô tận, khi biết mình được người khác yêu thương và nhớ đến, bởi có yêu thương, người ban ơn mới làm ơn cho ta, có được ở trong trái tim của người thi ân, ta mới nhận được ân sâu nghiã nặng của họ ; và sau cùng chỉ người vô đạo đức mới vô ơn, vì biết ơn là nền tảng của lòng nhân ái, bổn phận đạo đức căn bản của con người.
Người vô ơn không phải vì không biết ơn đã nhận, nhưng thường vì muốn xoá tên người biết quá khứ không như ý của mình, cái quá khứ cần được giấu kín, ém nhẹm, thay thế, sửa đổi, đánh bóng, mạ vàng khi thời đã đến, khi công danh đã đạt, bởi không mấy người thành công hôm nay còn muốn giữ lại qúa khứ thất bại hôm qua ; bởi chẳng ai công thành danh toại lúc này lại tìm về hình ảnh nghèo hèn, túng bấn, cơ cùng năm xưa ; bởi phần đông áo gấm về làng, vinh quy bái tổ đều muốn xóa sạch cuốn phim kỷ niệm có hình ảnh cơ hàn thời ở trọ, phải nhờ cậy mọi người, phải nương náu đủ nơi, và tồn tại được là nhờ lòng tốt của nhiều người.  
Vì thế, cái tâm lý của người chịu ơn rất phức tạp : vừa biết mình mang ơn, vừa muốn quên ơn người, muốn quên vì sợ hơn vì ghét : sợ quá khứ chiụ ơn bị người ban ơn tiết lộ, sợ cái yếu, cái dở của thuở hàn vi bị thiên hạ xâm xoi, coi thường. Chính cái sợ vô lý này đã thúc đẩy ngừơi ta đi nhanh đến vô ơn, và không ngại xóa tên người đã làm ơn cho mình.
Bên cạnh đó là tính kiêu căng, thần tượng cái tôi cố hữu, để khi còn yếu thì nín thở qua sông, khi bần hàn thì khiêm nhu, hiền hậu để được giúp đỡ, nhưng khi vừa có lông có cánh là oang oác huyênh hoang : ta làm nên tất cả, tất cả là do ta, và ta đã chẳng nhờ ai để có hôm nay.
Sau cùng, người vô ơn thường ru ngủ lương tâm mình bằng luận điệu ấu trĩ, với mục đích giảm thiểu đến mức tối đa giá trị của ơn nghiã và lòng tốt của ngừơi thi ân, khi cho rằng : không giúp mình, ông ta cũng giúp người khác hoặc bà ta giúp mình để tạo ảnh hưởng, uy tín cá nhân đó thôi, để một khi lương tâm đã bị buà mê thuốc lú, người vô ơn sẽ tự do và trân tráo phủ nhận tình yêu, lòng tốt của người ban ơn đã dành riêng cho mình.
Thực vậy, biết ơn là điều phải làm, là bổn phận không thể bỏ qua của người chịu ơn, mặc dù không người thi ân chân chính nào đòi được biết ơn, trả ơn, đền ơn, hay đáp nghiã. Trong câu chuyện ơn nghiã, người làm ơn hầu hết quên ơn mình đã làm, có khi quên cả người mình đã làm ơn để lòng được nhẹ, tâm được an, đôi tay được thông thoáng, hầu được tiếp tục rộng mở, thi ơn.
Cũng trong câu chuyện ơn nghiã, khác với người thi ơn, người thụ ơn phải biết ơn, dù biết ơn không có nghiã sẽ trả được ơn, nhưng vì là bổn phận đạo đức, nên đã nhận ơn tất phải biết ơn đã nhận, và đáp trả bằng tâm tình yêu mến thâm sâu.
Trên đây là bốn bước cần thiết trên hành trình tìm hạnh phúc sống với. Những bước chân có khi nối tiếp, có khi đồng hành, đồng nhịp tạo nên cuộc sống yêu thương hài hoà, khi những con người khác chung nhau một điểm gặp dưới nhiều danh xưng khác nhau :  tình yêu, tình người, lòng nhân ái.
Ước gì thế giới loài người với đủ thứ mặt nạ, mặt chìm, mặt nổi, mặt trong, mặt ngoài làm chúng ta mệt mỏi, chán chường, sợ hãi, hoang mang sẽ biến thành thế giới rạng rỡ tình người trên từng khuôn mặt, tươi thắm nhân ái trên từng bờ môi, ngời sáng yêu thương trên từng khoé mắt và mọi người nhận ra nhau qua dung nhan tuyệt vời của tình yêu đồng loại, gặp gỡ nhau ở điểm hẹn Bác ái, Vị tha, và cùng nhau xây dựng nền văn minh tình yêu và sự sống để mọi người được hạnh phúc trong niềm vui gặp gỡ và sống với anh em mình.
Jorathe Nắng Tím

Thứ Năm, 16 tháng 5, 2019

ĐỨC MARIA, MẸ CỦA MỖI NGƯỜI CHÚNG TA

Người viết xin chọn tựa đề Đức Maria, Mẹ của mỗi người chúng ta, mà không là Mẹ chúng ta một cách chung chung, vì người viết xác tín : nơi Đức Maria,  mỗi người, mỗi tâm hồn đều nhận được sự trìu mến, âu yếm rất riêng tư, đặc biệt của một người mẹ dành riêng cho đứa con duy nhất của mình.
Tin Mừng Gioan với tiệc cưới Cana (Ga 2,1-11), ở đó Đức Giêsu làm phép lạ đầu tiên cho nước hoá thành rượu ngon không những đã làm cho các môn đệ tin Ngài, mà còn làm nổi bật chân dung tuyệt vời của Mẹ Ngài, người mẹ không chỉ rất yêu thương, bao dung, hiền lành, đằm thắm, khôn ngoan, quán xuyến, mà còn  từng giây âu yếm dõi bước chân con, và từng phút ân cần chăm nom, ủi an, cứu giúp.  
Có tiệc cưới ở Cana, miền Galilê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giêsu. Đức Giêsu và các môn đệ cũng được mời tham dự. Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giêsu nói với Người : Họ hết rượu rồi. Đức Giêsu đáp Thưa Bà, chuyện, đó có can gì đến Bà và tôi ? Giờ của tôi chưa đến. Thân mẫu Người nói với gia nhân : Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo (Ga 2,1-5).
Tuy nói thế, nhưng sau đó Đức Giêsu đã làm phép lạ cho nước biến thành rượu ngon và mọi người được ê hề, vui vẻ.   
Vâng, chỉ một đọan Tin Mừng tiệc cưới Cana  cũng đủ cho chúng ta nhận ra Đức Maria, Mẹ của mỗi người chúng ta là nguời mẹ vượt xa trên cả tuyệt vời :
1.   Đức Maria là người Mẹ quan sát :
Quan sát là thái độ biểu hiện sự chú ý, nhưng có nhiều thứ chú ý khác nhau : có thứ chú ý thăm dò, theo dõi của thám tử, công an điều tra ; có thứ chú ý của kẻ tò mò thích kiếm chuyện người khác để thị phi, đàm tiếu ; có thứ chú ý tìm kiếm, khai phá với mục đích mở mang kiến thức, tích lũy dữ liệu ; và bên cạnh là thứ chú ý của trái tim khi quan sát nhất cử nhất động của người mình yêu để thương hơn, yêu hơn, bằng quan sát chở che, quan sát nâng đỡ, quan sát ủi an, quan sát âu yếm, quan sát tiên liệu.
Đức Maria, Mẹ Đức Giêsu và Mẹ của mỗi người chúng ta đã quan sát từng người trong tiệc cưới hôm ấy ở Cana. Có quan sát bằng trái tim tinh tế, yêu thương, Mẹ mới nhận ra nỗi lo phảng phất trên khuôn mặt cô dâu, dáng đi không còn tự tin của chú rể, nhất là nét bối rối của cha mẹ hai bên và người phụ trách nấu tiệc ; có quan sát bằng tình yêu bén nhậy, Mẹ mới nhận ra giữa bầu khí rộn rã, vui tươi, náo nhiệt của tiệc cưới đang hồi phấn khởi có cái gì bất thường, bất ổn vừa chớm nở, và đang lớn nhanh thành đe dọa nặng nề, ngột ngạt ; có quan sát bằng lòng mẹ bao la, Mẹ mới thấy vầng trán nhăn nheo, ánh mắt lạc hồn, điệu bộ lo âu của những người có trách nhiệm tiếp tân khi khách xin thêm rượu mà rượu không còn.
Tình yêu luôn đòi quan sát, bởi không có tình yêu nào lại không muốn nhìn thấy nhau, nhìn rõ nhau, nhìn nhau mãi, khác với kẻ thù không muốn nhìn đối phương, vì cạch mặt, khinh bỉ, kinh tởm, căm thù, và nếu có nhìn, chính là để xỉa xói cho hả giận, điểm mặt cho đã tức, đay nghiến, chì chiết cho thoả lòng, xỉ nhục cho đã miệng, và cho đáng kiếp, đáng đời, tận mạng, tận số đối thủ không đội trời chung.      
Khác với tất cả mọi người khách được mời, Đức Maria, Mẹ của mỗi người chúng ta đã quan sát với tình mẫu tử dạt dào và Mẹ đã thấy tường tận tình hình thực, hoàn cảnh bế tắc, cảnh huống hầu như không lối thoát khi giữa tiệc cưới mà hết rượu.
2.   Đức Maria là người Mẹ quan tâm :
Tình yêu của một người dành cho một người được thể hiện bằng sự quan tâm. Cha mẹ quan tâm đến cuộc sống của con, vì thương con ; vợ chồng quan tâm đến nhau vì yêu nhau, bạn bè quan tâm vì dành cho nhau tình bạn cao qúy, chân thành.
Thực tế và kinh nghiệm cho thấy : không mấy ai rảnh rỗi và dại dột quan tâm đến người mình không yêu thương, không qúy mến, không biết ơn, vì quan tâm đến ai, ta luôn bị người ấy kéo vào nhiều thứ tâm khó nói, khó cam, khó gánh vác khác như bận tâm, khổ tâm, lao tâm, bởi quan tâm đến ai là mang lấy người mình yêu trong trái tim, nên chuyện của họ trở thành chuyện của ta, vì thế mà tâm hồn ta thêm bận rộn ; quan tâm đến ai là mang hết khổ đau của họ vào trong đời mình, nên tâm hồn ta nặng thêm nhiều nỗi khổ mới ; quan tâm đến ai là chất thêm trên gánh đời vốn đã nặng của riêng ta gánh đời của họ, nên tâm hồn ta lao nhọc, vất vả hơn.
Vì thế, khi không quan tâm đến nhau nữa, người ta hiểu ngay là đã hết yêu nhau, và tình yêu thực sự khô cằn, cạn kiệt. Trái lại, càng yêu, người ta càng quan tâm đến nhau trong từng chi tiết li ti, vụn vặt, tưởng như không quan trọng gì. Nhưng chính những quan tâm bé nhỏ, vặt vãnh ấy lại đòi một tình yêu rất lớn, rất sâu, rất tinh vi, tế nhị.
Đức Maria, Mẹ của chúa Giêsu và mỗi người chúng ta đã biểu hiện sự quan tâm của tình mẹ tha thiết khi bén nhậy và tự nguyện mang lấy nỗi khổ tâm của đôi tân hôn khi tiệc cưới hết rượu ; đã sẵn sàng đồng hành với cha mẹ hai bên trong mối bận tâm thắt tim vì tiếng đời sẽ lên án keo kiệt, bôi bác khi để tiệc thiếu rượu ; đã nhanh nhẩu chia sớt gánh lao tâm nặng ngàn cân của chủ bếp vì tính toán sai số khách được mời và lượng rựơu tương xứng, cần thiết.
3.   Đức Maria là người Mẹ quan phòng :
Quan phòng là nhìn trước, chuẩn bị xa. Người Mẹ gần ngày sinh đã chuẩn bị cho đứa con sắp chào đời của mình đủ thứ cần thiết, người cha tiên liệu tương lai của con mình, thầy cô chuẩn bị bước chân vào đời của đám học trò thân yêu…, nên tình yêu nào cũng mang tính quan phòng, đòi phải tiên liệu những gì tốt đẹp cho nhau, và đề phòng, ngăn chặn trước những bất trắc, bất lợi, nguy hiểm, tai họa cho người mình yêu thương, bởi bản chất và cũng là mục đích phải đạt của tình yêu là hạnh phúc của người mình yêu.
Đức Maria, Mẹ của mỗi người chúng ta suốt đời và mãi mãi chỉ mang một sứ mệnh yêu thương và mưu tìm hạnh phúc cho con cái. Sứ mệnh đó thúc bách Mẹ không chỉ quan sát, quan tâm đến con cái, mà còn quan phòng, tiên liệu để tránh cho đàn con khỏi những rủi ro, cạm bẫy. Sứ mệnh ấy còn thúc đẩy Mẹ vượt qua mọi rào cản, kể cả giờ của Thiên Chúa như Đức Giêsu đã khẳng định : Giờ của tôi chưa đến (Ga 2,4) khi Mẹ xin Chúa can thiệp làm phép lạ ; cũng như Rêbécca, vì yêu con trai út Giacóp  đã vượt rào truyền thống và đoạt lời chúc phúc của cha già Isaác cho trưởng nam Êsau mà dành cho con út Giacóp, đứa con được bà đặc biệt yêu thương (x. St 27).
Là người Mẹ quan phòng, Đức Maria đã chuẩn bị tâm hồn các gia nhân khi nói trước với họ : Ngừơi bảo gì, các anh cứ việc làm theo (Ga 2,5). Chính vì biết trước và được chuẩn bị, nên khi Đức Giêsu bảo họ : Các anh đổ đầy nước vào chum đi ! (Ga 2,7), có ở đó sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục ngưòi Do Thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước (Ga 2,6), các gia nhân đã làm đúng ý Đức Giêsu mà không thắc mắc hay bực bội, cự nự gì.
Là người Mẹ quan phòng, Đức Maria đã kín đáo trao đổi, cẩn thận sắp xếp, điều phối nhịp nhàng để không ai biết sự cố hết rượu, và ngăn chặn kịp thời tiếng xấu mời khách mà giữa tiệc hết rượu sẽ té tát lan rộng, làm muối mặt đôi tân hôn và hai họ.
Là người Mẹ quan phòng, Đức Maria, Mẹ của mỗi người chúng ta đã cứu gia đình hai bên và đôi tân hôn một bàn thua trông thấy, khi đem lại cho tất cả mọi người có mặt niềm vui chan chứa và nồng nàn như  rượu ngon vừa được Đức Giêsu biến thành từ nước theo lời ông quản tiệc nói với chú rể : Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ (Ga 2,10). 
4.   Đức Maria, người Mẹ quan trọng cho đời chúng ta :
Nếu Đức Maria là Mẹ nhân lành của mỗi người chúng ta, thì chính Mẹ làm cho chúng ta được sống, được vui, được tràn đầy niềm hy vọng trên hành trình dương thế nhiều thách đố, thử thách ; làm cho chúng ta được an tâm, vững chí giữa chốn lưu đầy, khổ ải ; làm cho chúng ta được phấn khởi, hoan lạc giữa thung lung nước mắt trần gian như Mẹ đã chủ động đạo diễn, sắp xếp để Đức Giêsu, Con Mẹ làm phép lạ hoá nước thành rượu khi rượu hết giữa tiệc cưới ở làng Cana năm xưa.
Qủa thực, một khi nhận ra vị thế, và vai trò rất thần thế của Đức Maria đối với Thiên Chúa Ba Ngôi : ái nữ của Chúa Cha, Mẹ Chúa Con và Bạn của Chúa Thánh thần, chúng ta sẽ không hồ nghi tình mẫu tử với trái tim quan sát, quan tâm, quan phòng của Đức Maria dành cho mỗi người chúng ta, vì sứ mệnh của Mẹ là làm Mẹ nhân lành, Mẹ hằng cứu giúp của nhân loại, đồng thời chân nhận sự hiện diện quan trọng của Mẹ trong đời mỗi người, bởi có Mẹ, chúng ta chẳng phải lo gì, vì Mẹ là nguồn cậy trông, nên chưa từng có ai kêu cầu Mẹ mà về không, tay trắng ; có Mẹ, chúng ta chẳng sợ chi, vì Mẹ là trạng sư chở che, bênh vực ; có Mẹ, chúng ta sống hạnh phúc, vì Mẹ đầy ơn phúc, nguồn an vui,.
Hơn thế nữa, sự hiện diện quan trọng của Mẹ trong đời chúng ta đã được chính Mẹ tỏ ra trước khi chúng ta nhận ra tầm quan trọng đó, qua những lần Mẹ hiện ra để nhắc nhớ, nhắn  nhủ, khuyên can, chỉ bảo con cái loài người những gì phải làm, phải thay đổi, phải chỉnh sửa, phải khẩn trương thực hành hầu tránh tai họa mà Mẹ biết sẽ có thể ập đến, nếu không nghe lời Mẹ.
Thế mới biết tình mẫu tử của Đức Maria là tình mẹ đời đời, tình mẹ bất diệt, tình mẹ bao la, mãi mãi diệu vợi, tuyệt vời. Tình của Mẹ chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người, tình của Mẹ mỗi người chúng ta cho đến tận thế vẫn là tình quan sát, quan tâm, quan phòng và rất quan trọng mà chúng ta không thể hờ hững, coi thường, vì ai yêu mến Đức Maria, người ấy đã nắm chắc hạnh phúc thiên đàng.
Xin Mẹ Maria, Mẹ của mỗi người chúng con cho chúng con yêu mến Mẹ mỗi ngày hơn, và siêng năng thỏ thẻ với Mẹ lời thiên sứ Gabriel : Kính mừng Maria, đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu, Con lòng Bà gồm phúc lạ !.
Và khiêm tốn ngước mắt nhìn lên Mẹ van xin : Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử. Amen
Jorathe Nắng Tím