Suy Niệm TIN MỪNG CHÚA NHẬT III PHỤC SINH (Ga 21,1-17)
Tin Mừng Gioan
hôm nay làm nổi bật chân dung một Đức Giêsu Rất Tình với các môn đệ và với
Phêrô, môn đệ đã chối mình.
Được gọi là có
tình, rất tình với nhau khi người ta quan tâm đến nhau.
Đức Giêsu sau khi
sống lại đã biểu hiện tình yêu của mình với các môn đệ khi hiện ra với các ông
và quan tâm đến hiện trạng của các ông khi lắng nghe các ông than thở : “không
có gì ăn” (Ga 21,5), vì “đêm ấy họ không bắt được con cá nào” (Ga 21,3).
Một nhóm ngư phủ
chuyên nghiệp mà suốt đêm không bắt được con cá nào thì quả thực chết đói đến
nơi. Và tình trạng thiếu thốn của các môn đệ đã là mối bận tâm hàng đầu của Đức
Giêsu khi Ngài hiện ra thăm các ông.
Quan tâm đến việc
làm, sinh kế, Đức Giêsu còn quan tâm đến tình trạng đói no của các ông hôm nay,
khi hỏi các ông : “anh em có gì ăn không ?” (Ga 21,5). Hỏi “có gì ăn không ?”
là cách hỏi tế nhị tránh cho các môn đệ câu trả lời khó nói, vì Ngài biết các
ông vất vả suốt đêm mà không bắt được con cá nào.
Quan tâm đến ai
là muốn biết người ấy có hạnh phúc, bình an không. Nhưng quan tâm không chỉ
dừng lại ở biết, mà được thôi thúc đi đến việc làm : làm tất cả để người mình
yêu được hạnh phúc lớn nhất, trọn vẹn nhất.
Đức Giêsu đã
không quan tâm để chỉ biết các môn đệ là những người mình yêu đang gặp khó khăn
kinh tế, nhưng giúp các ông ra khỏi bế tắc bằng chỉ cho các ông : “Cứ thả lưới
xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá” (Ga 21,6) và làm phép lạ cho
cá vào lưới nhiều đến độ “không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá” (Ga 21,
6). Và bữa ăn có cá tươi vừa bắt từ biển hôm ấy ngay trên bờ biển đã đem lại
niềm vui khôn tả cho cả Thầy và trò.
Tuy vậy, quan tâm
đến sinh kế, miếng cơm manh áo mới chỉ là một phần bổn phận của tình yêu nơi
những con người sống rất tình với người khác. Còn một quan tâm khác bên cạnh
không kém quan trọng , đó là bình an trong tâm hồn.
Đức Kitô sống lại
đến thăm các môn đệ và ban bình an cho các ông. Ngài biết các môn đệ của mình
vừa trải qua một cơn thử thách nặng nề hơn nghìn lần ác mộng, vì những gì xẩy
ra quả thật vượt xa những tang thương, đổ nát và ê chề thất bại các ông có thể
tưởng tượng. Hỏi ai trong các môn đệ Đức Giêsu đã có thể nghĩ có ngày Thầy mình
sẽ bị kết án là tên phiến loạn, trong khi Ngài vẫn tôn trọng chính quyền và
công khai trả lời : “Trả cho Xêda những gì thuộc về Xêda” (Lc 20,25), nghĩa là
Ngài không xách động dân làm loạn, chống lại nghĩa vụ đóng thuế cho chính quyền
Rôma ; hỏi ai trong các ông có thể nghĩ. Thầy mình sẽ bị toàn dân đả đảo nguyền
rủa lộng ngôn, phạm thượng mặc dù suốt đời Ngài chỉ làm theo thánh ý Chúa Cha và
hỏi ai trong họ có thể nghĩ sẽ có ngày Thầy mình bị đem đi đóng đinh, ô nhục
trần truồng chết trên thập giá, trong khi cả một đời chỉ rao giảng và thực hiện
Yêu Thương. Chẳng thế mà đã ba lần báo trước : “Thày sẽ lên Giêrusalem để chịu
chết” (Mt 16,21), nhưng không môn đệ nào đã tin, và Phêrô, anh trưởng nhóm còn
tỏ ra khó chịu, can ngăn (Mt 16,22-23).
Vì thế, tâm hồn
các môn đệ những ngày sau biến cố tử nạn của Đức Giêsu vẫn còn tan nát, héo hắt,
hoang mang, hoảng sợ, không chỉ vì mất Thầy, mất người lãnh đạo, mất chốn tựa
nương, mà còn mất hướng đi, mất lẽ sống, mất điểm tựa, mất tinh thần, mất niềm
tin, mất hy vọng, mất những gì đã xây dựng và mất luôn những gì ấp ủ, ước mơ.
Đức Giêsu biết
các ông khổ lắm, khổ vì mất hết đã đành, mà còn khổ vì miệng đời nguyền rủa,
ngạo nghễ, cười chê. Và trong tất cả Phêrô là người đau khổ nhất. Phêrô
không chỉ khổ nỗi khổ chung của anh em môn đệ, mà còn đau vì mặc cảm phản bội,
vì đã yếu đuối chối không quen biết Đức Giêsu . Biết Phêrô đau
khổ rất nhiều, Đức Giêsu đã đặc biệt rất tình với ông. Với ba lần cùng một câu
hỏi : “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không ?” (Ga
21,15.16.17), Đức Giêsu đã cho ông biết tình Ngài bao la và ngàn triệu lần lớn
hơn tội ông.
Ba lần gặng hỏi
đến nỗi Phêrô phải ngượng ngùng, Đức Giêsu cố ý tạo cho Phêrô cơ hội công khai
tuyên xưng tình yêu của mình để ra khỏi mặc cảm trước anh em vì đứng đầu nhóm
mà hèn nhát chối Thầy.
Quả thực, ba lần
kiên quyết, vững mạnh tuyên xưng : “Lạy Thầy, con yêu mến Thầy” đã xoá sạch vết
tích tội lỗi và mặc cảm của ba lần yếu đuối, nhát đảm lầm lỡ thốt ra lời phản phúc
: “Tôi thề là không biết người ấy là ai !” (Mt 26,74).
Ở đây, chúng ta
cần nắm bắt một điều rất quan trọng là nền tảng cho sự sống của các cộng đoàn
Kitô trong mọi thử thách, đó là dù thế nào đi nữa, dù bị bách hại đến đâu, dù
mất hết không còn gì, dù bị chính quyền truy lùng, giáo quyền xua đuổi, bỏ rơi,
trục xuất, các môn đệ của Đức Giêsu sau những ngày Thầy tử nạn vẫn gắn bó ở với
nhau trong tình yêu huynh đệ, bằng chứng là các ông no đói có nhau, cùng tìm về
nghề cũ, cùng kiếm kế sinh nhai. Khung cảnh Đức Giêsu hiện ra hôm nay, chính là
khung cảnh gắn bó huynh đệ giữa các môn đệ. Đó là điều quan trọng nhất các ông
đã giữ lại được cho mình trong khi tất cả đều đã mất hết. Các ông đã giữ
được điều cốt yếu học được từ Thầy là “Anh em hãy thương yêu nhau như
Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12).
Khung cảnh yêu
thương giữa các môn đệ với nhau và rất tình giữa Đức Giêsu và các môn đệ năm
xưa là ước mơ, cố gắng và lời cầu xin của chúng ta mỗi ngày cho Giáo Hội.
Xin Chúa thương
xót và tiếp tục “rất tình” với chúng con. Ước gì chúng ta biết làm chạnh
lòng Thiên Chúa bằng cố gắng sống tình với nhau mỗi ngày, như Chúa dạy.
Jorathe Nắng Tím