Suy Niệm TIN MỪNG CHÚA NHẬT XV – XVI Thường Niên, Năm C
Tin Mừng được
chọn trong các Chúa Nhật XIV đến Chúa Nhật XVI Thường Niên của Năm C đều xoay
quanh sứ vụ truyền giáo, tức loan báo Tin Mừng Cứu độ của Đức Giêsu, Thiên Chúa
làm người, Đấng đã sống, đã chết và sống lại để nhân loại được sống.
Nhiều người cho
việc truyền giáo là sứ vụ đặc thù được trao phó cho các giám mục, linh mục, tu
sĩ nam nữ, cùng lắm là các giáo lý viên, còn đa số “bàn dân thiên hạ” không
chức tước, phẩm hàm, trật ngạch thì được miễn “lao động truyền giáo” ; cũng có
người cho rằng mình có được học thần học đâu mà giảng đạo cho người chưa biết
Đạo ; lại có người vui vẻ khoán trắng việc loan báo Tin Mừng cho người khác
viện cớ là lắm tội, nhiều tai tiếng “nguội lạnh, khô khan”, chưa kể luôn dành
đứng đầu sổ “Văn dốt vũ dát” trong cộng đồng, đoàn thể.
Nhưng lý do làm
phần đông chúng ta không dám truyền giáo, ngại rao truyền Tin Mừng, không bạo
miệng giới thiệu Đức Giêsu cho người chung quanh chính là chúng ta không biết
truyền giáo thế nào, rao giảng làm sao cho thuyết phục ?
Thực ra, khi chọn
và sai các môn đệ lên đường truyền giáo, giảng đạo, Đức Giêsu đã tiên liệu tất
cả, và điều quan trọng nhất Ngài căn dặn, nhắn nhủ các thừa sai, nhà truyền
giáo, sứ giả, tông đồ là cách thức loan báo Tin Mừng, phương thế giới thiệu
Ngài cho muôn dân.
Trong Tin Mừng
Luca, sau khi nhắc lại và nhấn mạnh truyền giáo là việc làm cấp bách, khẩn trương
vì “lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít” (Lc 19,2), và điều kiện đi theo Ngài
trên đường truyền giáo là phó thác tuyệt đối, phó thác đến độ không cần biết ăn
đâu ngủ đâu, vì “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có
chỗ tựa đầu” (Lc 9,58), đồng thời từ bỏ cả những điều được phép như câu trả lời
của Đức Giêsu cho người xin phép về nhà chôn cất cha mình trước đã, rồi trở lại
theo Đức Giêsu : “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết. Còn anh, anh hãy đi loan báo Nước
Thiên Chúa” (Lc 9,60), Đức Giêsu đã nêu rõ những điểm mà người môn đệ phải thực
hiện khi rao giảng, giới thiệu với người khác về Ngài :
1.
Người tông đồ truyền giáo bằng cách khi vào nhà nào, trước tiên
hãy nói : “Bình An cho nhà này” (Lc 10,5).
Chúc bình an cho
mọi người là cách rao giảng hữu hiệu nhất, vì bình an là hoa trái tuyệt hảo
của Tình Yêu, là ơn sủng của Chúa Thánh Thần, là món quà quý giá của Đức Giêsu
phục sinh, là khao khát của mọi con người sống trên thế gian đầy bất an, bất
ổn.
Vì thế, khi chúc
bình an cho người khác chính là trao ban bình an của Đức Giêsu, Đấng đã yêu
thương và chết cho mọi người để mọi người được hạnh phúc bình
an. Và sẽ không thể
hiểu nổi nếu người được sai đi loan báo một Thiên Chúa của tình yêu lại không
đem đến bình an là kết quả tất yếu của tình yêu, nhưng lại gây chia rẽ, bất
hoà, xáo trộn, lo sợ, hoang mang, ngờ vực. Người nghe Tin Mừng sẽ chói tai và
không thể chấp nhận người được sai đi làm chứng Thiên Chúa là tình yêu thương
xót, Đấng Cứu Độ lại không có thói quen, hoặc thiếu khả năng làm cho người khác
được bình an, nhưng lai giỏi giang, tinh xảo, nhuần nhuyễn trong chuyện khích
bác, đâm thọc, vu khống làm mọi người đảo điên, hoảng loạn.
Do đó, nhìn một
người Kitô hữu hiền lành, khiêm nhu, biết chạnh lòng thương xót và thao thức
kiến tạo hoà bình (x. Mt 5,4.7.9), người ta sẽ dễ dàng nhận ra Đức Giêsu mà
người ấy đang giới thiệu.
Nhưng để bình an
là bình an thực, không là bình an “đầu môi chót lưỡi”, bình an “bánh vẽ”, nhà
truyền giáo phải nhận từ Đức Giêsu bình an này, vì là bình an của Thiên Chúa,
bình an mà thế gian không ban được (x. Ga 14,27).
2.
Người truyền giáo phải làm chứng Đức Giêsu bằng biết chạnh lòng thương
xót.
Không phải vô
tình, vô ý mà Đức Giêsu đã đặt thầy tư tế và thầy Lêvi, là hai vị thuộc hàng
chức sắc vào hai nhân vật bị coi là không đáng bắt chước, noi gương trong dụ
ngôn “người Samari tốt lành” được chọn cho chúa nhật XV Thường Niên (Lc 10,25-37).
Sở dĩ Đức Giêsu
“chiếu tướng” các vị này bởi Ngài biết các chức sắc trong Đạo vì thuộc cơ chế,
nên dễ rơi vào tình trạng quá chăm lo bảo vệ cơ chế mà quên “chạnh lòng thương”
người bất hạnh ; vì gắn liền với cơ cấu tổ chức nên bận rộn tổ chức cho cơ cấu
luôn nhịp nhàng, hoà điệu mà mất chú ý, quan tâm đến những “lạc cung, lỗi
nhịp”, thiếu quy củ, trật tự của đám dân nghèo mà tai ương chồng chất, dồn
dập không buông tha ; vì quá chăm chút từng chấm nhỏ li ti của lề luật mà mất
tầm nhìn về phía người xấu số bị đời khinh khi, dầy xéo ; vì quá cẩn trọng tuân
giữ nội quy, điều lệ, giờ giấc của đoàn thể, hội, nhóm mà vô tình, vô cảm trước
người anh em vừa bị “rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử,
rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết” (Lc 10,30), nhưng cả hai vị tư tế
và thầy Lêvi “khi trông thấy người này” đều “tránh qua bên kia mà đi” (Lc
10,31) đề khỏi bị phiền phức, liên lụy, khỏi mất thời giờ, tốn kém, lỡ việc bề
trên giao, và xáo trộn quy trình bổn phận tế lễ.
Chỉ tiếc một
điều, nhưng lại là điều quan trọng không thể thiếu, đó là hai vị đã “không thực
thi lòng thương xót đối với người bị nạn” như người Samari không là chức sắc,
cũng chẳng có đạo nhưng tốt lành, nhân hậu. Và Đức Giêsu đã kết luận dụ ngôn
khi nói với thầy thông luật đã chất vấn Ngài : “Tôi phải làm gì để được sự sống
đời đời ?” (Lc 10, 25) “Ông hãy đi và cũng hãy làm như vậy” (Lc 10,37).
“Hãy làm như vậy”
là làm như người Samari biết chạnh lòng thương xót, để có thể làm chứng cho anh
em Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ đầy lòng thương xót mà chúng ta yêu mến, tôn thờ,
phụng sự.
“Hãy làm như vậy”
là làm như người Samari quảng đại chịu mất thời giờ, mất sức lực, mất tiền bạc,
mất cả trật tự, nguyên tắc của cơ cấu tổ chức, cả lập trình đã được kỹ lưỡng tính
toán trong công việc để lo cho người bất hạnh không quen biết tình cờ trông
thấy trên đường, bởi có chịu mất như thế thì lời rao giảng về Đức Ái Kitô giáo,
về Giới luật yêu thương, về một Giáo Hội là Mẹ nhân lành, về Nước Trời dành cho
những người thực thi lòng thương xót của nhà truyền giáo mới xác thực và
thuyết phục, ngược lại, tất cả sẽ chỉ là chuyện tào lao của tên nói láo không
làm chứng được gì, không thuyết phục được ai, vì không đáng tin khi “ngôn
hành bất nhất”.
3.
Người truyền giáo phải truyền giáo bằng gắn bó, sống với, ở lại
trong Đức Giêsu, Đấng sai mình.
Tin Mừng Chúa hật
XVI thường niên Năm C tường thuật câu chuyện Đức Giêsu đến nhà hai cô Mátta và
Maria. “Cô Mátta thì tất bật lo phục vụ” (Lc 10,40), trong khi đó “cô Maria cứ
ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dậy” (Lc 10,39). Và khi cô Mátta tỏ ý bực
bội “xin Thầy bảo em con giúp con một tay” (Lc 10,40), thì Đức Giêsu làm Mátta
bất ngờ khi trả lời cô : “Con băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá ! Chỉ có một
chuyện cần thiết mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi” (Lc
10,41-42).
Vì truyền giáo là
giới thiệu Đức Giêsu cho người khác bằng làm chứng về Ngài. Nhưng sẽ làm chứng
thế nào và làm chứng điều gì về Ngài, nếu ta không biết gì hay biết qua loa về
Đấng ta phải làm chứng ? Vì truyền giáo là thuyết phục người khác tin những gì
mình nói, chấp nhận điều mình chứng thực, “tâm phục khẩu phục” điều mình kể về
người mình yêu mến là đúng, nên khi không đủ hiểu biết và tình cảm dành cho con
người ấy thì quả thật sẽ rất khó lòng làm cho người khác tin.
Đó là chưa kể
điểm cốt yếu trong việc truyền giáo là “người được sai đi” chỉ là khí cụ của
“người sai đi” là Đức Giêsu, nên công cuộc tác động, đổi mới, thánh hóa, kêu
gọi con người không thuộc thẩm quyền của khí cụ, người được sai đi, nhưng do
một mình Thiên Chúa.
Vì thế, khi nhà
truyền giáo cắt đứt liên lạc với Chúa, cắt thông tin với Chúa, cắt hiệp thông
với Chúa thì chẳng khác gì cành nho tự tách khỏi cây nho để trở nên khô héo,
không thể tồn tại, nói chi đến chuyện chuyển tải nhựa sống từ thân cho lá, như
Đức Giêsu đã quả quyết : “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy
và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy,
anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
Tóm lại, truyền
giáo là ơn gọi của tất cả mọi người thuộc về Đức Giêsu qua bí tích rửa tội, và
công việc ấy khẩn trương, cấp bách.
Tin Mừng còn quả
quyết tất cả mọi người đi theo Đức Giêsu đều có khả năng truyền giáo, và phải
truyền giáo, vì truyền giáo hệ tại ở việc sống mầu nhiệm Đức Giêsu khi người
Kitô hữu :
4.
Là khí cụ bình an của Thiên Chúa Tình Yêu :
Là khí cụ bình an
của Chúa khi “vui với ai mừng vui, và khóc với ai đang khổ sầu” ; khi cảm
thông, chia sẻ niềm vui, nỗi buồn, thành công, thất bại, công danh thành đạt
hay tai ương, thất thế với anh chị em cùng sống ; khi trở thành nụ cười an ủi,
nâng đỡ người cô đơn, hy vọng cho trái tim tuyệt vọng, nắng ấm rạng rỡ cho tâm
hồn băng giá, sầu buồn.
4.1
Sống triệt để
lòng thương xót như Cha trên trời là Đấng giầu lòng xót thương.
4.2
Gắn bó thiết
thân, và ở lại trong Đức Giêsu bằng đời sống bí tích và cầu nguyện.
Được như thế, tất
cả chúng ta sẽ hân hoan, hớn hở như nhóm Bẩy Mươi Hai môn đệ trở về sau những
ngày truyền giáo, khi nghe Đức Giêsu nói : “Anh em hãy vui mừng vì tên anh em
đã được ghi trên trời” (Lc 10,20).
Jorathe Nắng Tím