Khi
chiêm ngắm và cầu nguyện với Mẹ, con chỉ thấy Mẹ hiền lành và khiêm nhường :
hiền lành mọi nơi, mọi lúc, và khiêm nhường trong từng ý nghĩ, lời nói, việc làm.
Qủa
thực, dọc suốt Tin Mừng, Mẹ Maria đã luôn xuất hiện với tâm tình và cung cách của một con người
hiền lành và khiêm nhường : hiền lành khi chào đón sứ thần Gabrien, và khiêm nhường thân thưa cùng
thiên sứ : “Việc ấy xẩy ra thế nào được, vì tôi
không biết đến việc vợ chồng !”
(Lc 1,34) ; hiền lành nghe thiên sứ trấn an, và khiêm nhường “xin
vâng như lời thiên sứ truyền”,
vì “tôi đây là nữ tỳ của Thiên Chúa” (Lc 1,38). Vượt núi đồi đi thăm chị họ Êlisabét vừa được Thiên Chúa ban cho hồng
ân làm mẹ dù tuổi đã cao (x. Lc 1,5-25).
Mẹ đã rất mực hiền lành và khiêm nhường trước lời ca ngợi rất chính đáng
của bà chị họ, khi vừa thấy Mẹ :
“Em được chúc phúc hơn mọi phụ nữ, và
người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa
tôi đến với tôi thế này ? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa
con trong bụng đã nhảy lên vui sướng”
(Lc 1,42-44), để rồi thay vì tự phụ, kiêu căng nhận hết vinh dự cho mình, Mẹ đã
hiền lành và khiêm nhường cất lời ca tụng Thiên Chúa, “Đấng
đã đoái thương phận nữ tỳ hèn mọn …, và hằng thương xót những ai kính sợ Người”
(Lc 1, 48.50). Những ngày trước khi hạ
sinh Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ muôn dân, Mẹ hiền lành, khiêm nhường một mực vâng lời chồng “rời
Nadarét miền Galilê lên thành vua Đavít tức Bêlem, miền Giuđê”,
ở đó Mẹ đã sinh con trong thiếu thốn tận cùng, đến nỗi phải “đặt
con nằm trong máng cỏ, vì không tìm được chỗ trong nhà trọ”
(Lc 1,2,4.7). Không hiền lành và khiêm nhường, làm sao Mẹ có thể chấp nhận sinh
con trong hoàn cảnh rất thiếu thốn, tồi tệ, mà không nổi nóng, tức giận ?
Ngày dâng con cho Thiên Chúa qua nghi thức “cắt
bì” như Luật định, Mẹ đã đứt ruột khi nghe
lời tiên tri của cụ già Simêon : “Thiên
Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ítraen ngã xuống hay đứng
lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng. .. Còn chính bà, một lưỡi gươm
sẽ đâm thâu tâm hồn bà” (Lc 2,34-35). Hỏi người mẹ nào
nghe những lời “xui xẻo”
về tương lai con mình, mà không bực bội phủ nhận, phản đối, nghi ngờ ? Nhưng
Mẹ hiền lành và khiêm nhường, đã không khó chịu với cụ già Simêon, càng không
to tiếng biện bác, thanh minh, nhưng đằm thắm, nhẹ nhàng “ghi
nhớ tất cả những điều ấy trong lòng”
(Lc 2,51), như lần Đức Giêsu, Con Mẹ khi tròn
mười hai tuổi đã tự ý tách đoàn hành hương, và gia đình, để một mình ở lại
Đền Thờ Giêrusalem, “ngồi giữa các thày dạy, vừa nghe họ,
vừa đặt câu hỏi” (Lc 2,46), trong khi Mẹ và thánh
Giuse hốt hoảng, lo âu đi tìm khắp nơi suốt ba ngày (x. Lc 2, 41-52).
Đó
là những tháng năm của Nadarét ẩn dật. Đến ngày Đức Giêsu thi hành sứ mệnh Cứu
Thế, Mẹ vẫn hiền lành, khiêm nhường dong duổi trên đường truyền giáo với Con Mẹ,
như khiêm nhường trước lời ca tụng của người phụ nữ giữa đám đông : “Phúc
thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú”,
và hiền lành không cho là xúc phạm, khi Đức Giêsu, Con Mẹ đỡ lời người phụ nữ :
“Đúng hơn phải nói rằng : Phúc
thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa”
(Lc 11,27-28). Cũng như có lần, người ta nói với Đức Giêsu : “Thưa
Thầy, có Mẹ và anh em, chị em Thầy ở ngoài
kia đang tìm Thầy !”.
Nhưng Người đáp lại : “Ai
là mẹ tôi ? Ai là anh em tôi ?”
Rồi người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói : “Đây
là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là
anh chị em, là mẹ tôi” (Mc 3,31-35). Nghe thế, lẽ ra Mẹ phải
phản ứng với chút bất bình, nhưng hoàn toàn ngược lại, Mẹ hiền lành, khiêm nhường
đón nhận Lời Thiên Chúa từ miệng Con mình với lòng yêu mến, vâng phục. Đặc biệt
ở tiệc cưới Cana, dù chính Mẹ đã xin Đức Giêsu làm phép lạ để gỡ cho đôi tân hôn
và gia đình hai họ khỏi “bàn
thua trông thấy”, vì hết rượu giữa tiệc cưới linh đình,
nhưng Mẹ đã khiêm tốn ẩn mình phía sau, hiền lành, thân thiện chia sẻ công việc
phục vụ với gia nhân trong bếp, đến nỗi chỉ
vài người được biết bàn tay Mẹ đã can thiệp xin Chúa cứu giúp làm phép lạ
hóa nước thành rượu ngon (x. Ga 2,1-11).
Và
trên đường thánh giá, Mẹ cũng vẫn hiền lành và khiêm nhường theo Con từng bước đau
đớn, nhục nhằn cho đến đỉnh đồi Canvê, nơi Con Mẹ giang tay chịu đóng đinh tức
tưởi chết trần truồng. Ai là mẹ lại có thể hiền lành đến độ lặng lẽ “đứng
đó” nhìn con vô tội chịu chết oan uổng,
mà không một lời than trách, lên án, nguyền rủa ? (x. Ga 19,25-27). Ai là
mẹ lại có thể khiêm nhường trước “yên
lặng” bỏ rơi đến rùng mình của Thiên Chúa,
khi nghe Con mình nức nở, thì thào giờ hấp hối : “Lậy
Thiên Chúa của con, sao Chúa bỏ con ?”
(Mt 27,46), mà không bất mãn, nổi lọan ?
Sau
cùng, ở giữa và đồng hành với nhóm các Tông Đồ (x. Cv 1,14), và cộng đoàn Kitô
hữu đầu tiên, sau khi Chúa Giêsu về trời, Mẹ luôn hiện diện với cung cách của
người Mẹ hiền lành và khiêm nhường, để với ơn Chúa Thánh Thần, Tin Mừng của Con
Mẹ lan toả khắp nơi, đến với mọi dân tộc ở mọi thời.
Thực
vậy, ở Nadarét, Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa đã dậy con trẻ Giêsu sống hiền lành,
khiêm nhường là bài học nhân bản nền tảng, vì Mẹ biết người tốt phải là người hiền lành và khiêm nhường,
bởi kẻ hung bạo, kiêu căng, bợm trợn, trâng tráo, huyênh hoang, tự cao tự đại
không bao giờ có thể được coi là người tốt trong xã hội, vì họ chỉ sống cho mình,
mà không sống cho tha nhân, chỉ tìm mình mà không nghĩ đến hạnh phúc của anh em,
chỉ thu quén, vun xới cho mình, mà vô cảm, dửng dưng trước nhu cầu của người khác.
Dậy con trẻ Giêsu hiền lành và khiêm nhường, Mẹ không muốn Con mình học theo thói
đời “nâng mình lên bằng cách đạp người
xuống”. Đạp người xuống càng sâu, mình càng
dễ lên cao, nên người đời ra sức đạp đổ người khác bằng rình mò, soi bói, bới móc,
chỉ trích, phê bình, tung tin hạ uy tín, nặc danh gieo tin đồn thất thiệt phá
hoại danh dự bản thân, hạnh phúc gia đình, an sinh, sự nghiệp. Mẹ cũng dậy em bé
Giêsu đừng tìm chỗ quan trọng nơi công cộng ; đừng lân la đến người có chức
có quyền, giầu có, sang trọng để tìm danh lợi, ảnh hưởng ; đừng khoe
khoang công đức, tài năng ; đừng sửa giọng sửa tướng để tỏ ra mình là người
quan trọng, không thể thay thế ; đừng hống hách, hà khắc, quát tháo “long
trời lở đất” thách thức, đe dọa ; đừng “thượng
đội hạ đạp”, hèn với quan trên, ác với dân lành,
thái độ mà ở đâu và thời nào cũng đáng khinh, đáng trách ; đừng ỷ mình có
tài, nhiều của, và “không coi ai ra gì”; nhất là đừng
quên ơn Trời, ơn người hằng bao bọc, ấp ủ đời mình. Và con trẻ Giêsu đã thuộc lòng
và thực hành bài học nhân bản nền tảng này, và chính Ngài đã dậy bài học đó cho
các môn đệ của Ngài khi tuyển chọn các ông :
“Anh em hãy học với Thầy, vì Thầy hiền
lành và khiêm nhường trong lòng”
(x. Mt 11,29).
Mẹ
còn là thầy dậy sống nhân đức, khi xác tín qua đời mình : hiền lành và khiêm
nhường là nền tảng của tất cả các nhân đức, bởi thiếu hiền lành, người ta sẽ
nghiêng chiều theo bạo lực, và không khiêm
nhường, kiêu căng sẽ chiếm đóng tâm hồn, mà Kiêu Căng và Bạo Lực là bản chất của
Satan và bè lũ.
Nhưng
hơn tất cả, Mẹ khẳng định qua đời sống của Mẹ : hiền lành, khiêm nhường là
chân móng vững chắc xây đời sống Đức Tin.
Chính vì hiền lành và khiêm nhường, Mẹ đã vững tin vào Lời Hứa của Thiên Chúa,
mà không một phút giây bực dọc, phản ứng tiêu cực hay ngông cuồng nổi
loạn, dù Lời Hứa ấy đã có những lúc tưởng như không có
thực, mà chỉ là những lời ngon ngọt, dối trá, như bà chị họ Êlisabét đã khen ngợi
Mẹ : “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa
sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”
(Lc 1,45). Phúc Mẹ có đây, chính là trái tim hiền lành và tâm hồn khiêm nhường
tuyệt vời !
Mẹ
nhìn thấy trên hành trình Xin Vâng của Mẹ : hiền lành, khiêm nhường là điều
kiện không thể thiếu của Đức Ái, vì không thể “nhẫn
nhục, nhân hậu, không ghen tương, không nóng giận, không nuôi hận thù”,
nếu không hiền lành ; không thể “không
vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không mừng
khi thấy sự gian ác”, nếu không khiêm nhường (x. 1 Cr
13,4-6), bởi kẻ kiêu ngạo thì luôn muốn “cưỡi
đầu cưỡi cổ” người khác ; chiếm đoạt, sở hữu
moị sự, mọi người cho danh - lợi - thú riêng mình ; vì suốt đời kẻ kiêu căng,
hung dữ chỉ nuôi một ước mơ duy nhất là
khuynh đảo, thống trị, khống chế mọi người để mọi người phục vụ mình. Và như thế, không
hiền lành, khiêm nhường, không ai có thể “tha
thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả”,
như Đức Ái đòi hỏi (1 Cr 13,7).
Mẹ
chứng minh qua chọn lựa tín thác vào Thiên Chúa, Đấng “đã
hứa cùng cha ông chúng ta”
và “nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ
phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời”
của Mẹ (Lc 1 55) : hiền lành, khiêm nhường là ngọn gió của Chúa Thánh Thần
cho niềm Hy Vọng bay lên cao, vì không hiền lành, không ai có thể hy vọng “Nước
Trời là của họ” khi chấp nhận nghèo khó vì Nước Trời ;
hy vọng “được Thiên Chúa ủi an, cho thoả lòng”
khi vui lòng chịu sầu khổ, và vất vả đi tìm sự công chính ; hy vọng “được
nhìn thấy Thiên Chúa, và được Thiên Chúa xót thương”
khi giữ tâm hồn trinh trắng, lương thiện, và thương xót anh em. Không khiêm nhường,
ai sẽ có thể nuôi niềm hy vọng “là
con Thiên Chúa, được Nước Trời làm quê hương vĩnh cửu, và phần thưởng lớn lao
trong Vương Quốc thiên đàng”,
khi chịu đựng mọi vu khống xấu xa, sỉ nhục cay đắng, lăng mạ tủi hổ, đàn áp thương
đau, bách hại đẫm máu (x. Mt 5,3-12).
Không
những thế, Mẹ còn qủa quyết qua cuộc đời người Kitô hữu thứ nhất và tuyệt vời
nhất của Mẹ : hiền lành, khiêm nhường là điều kiện để đón nhận Hồng Ân Chúa
ban, vì Chúa chỉ thương người hiền lành, khiêm nhường, và chống lại kẻ hung dữ,
kiêu căng ; “hạ bệ những ai quyền thế, nâng cao
mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1,52), vì “ai
tôn mình lên sẽ bị hạ xuống ; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”
(Lc 18,14).
Học
với Mẹ, Đức Giêsu, Con Mẹ đã tiếp tục dậy các môn đệ và nhân loại bài học quan
trọng “hiền lành và khiêm nhường”
mà Ngài đã học ở Mẹ, để Giáo Hội của Ngài trở thành tập thể những người hiền lành
và khiêm nhường ở mọi thời, mọi nơi được Chúa Cha yêu thương, như toàn thể các
Thánh là những bông hoa “hiền
lành và khiêm nhường” rực rỡ vườn hoa thiên đàng ;
như người đàn bà ngoại đạo xứ Ca-na-an đã hiền lành, khiêm tốn thưa với Đức Giêsu :
“Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó
con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”,
mặc dù Ngài đã nói với bà : “Không
nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”, khi bà đến bái lậy
và nài xin Ngài thương xót cứu giúp chữa con gái bà bị quỷ ám rất khổ sở (x. Mt
15,21-28) ; hay như ông đại đội trưởng ngoại giáo đã khiêm tốn thân thưa với
Đức Giêsu : “Lậy Ngài, tôi chẳng đáng đón rước
Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài phán một lời, thì đầy tớ tôi sẽ được lành bệnh”
(Mt 8,8), và như hàng hàng lớp lớp những giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, giáo
dân, và những người thành tâm đi tìm Chúa đang âm thầm sống Hiền Lành, và Khiêm
Nhường như đòi hỏi của Tin Mừng. Các vị là những người đã nhận ra hiền lành và
khiêm nhường chính là biết đón nhận ơn sủng với lòng yêu mến, biết ơn ; biết
dùng tất cả tài năng Chúa ban để phục vụ mọi người (x. Mt 25,14-30) ; biết
làm việc với thái độ và tâm tình của người đầy tớ trung tín nhưng vô dụng, chỉ
biết làm công việc được Chủ trao với lòng tín thác (x. Lc 17,10).
Lậy
Đức Maria, Mẹ rất hiền lành và khiêm nhường của Chúa Giêsu và của mỗi người chúng
con !
Xin
Mẹ ban cho chúng con trái tim hiền lành và tâm hồn khiêm nhường giống như Mẹ, để
đáng được Chúa thương xót cứu độ, vì “không
trở nên như trẻ nhỏ thì sẽ chẳng được vào Nước Trời”
(Mt 18,3), mà trẻ nhỏ vì bé nhỏ nên “hiền
lành, khiêm nhường” và luôn được Chúa yêu thương.
Jorathe
Nắng Tím