Suy
Niệm TIN MỪNG CHÚA NHẬT XXIX Thường Niên, Năm C
Đức tin Kitô giáo là sự
gặp gỡ thiết thân giữa Thiên Chúa trong Đức Giêsu và con người. Vì là gặp gỡ
thiết thân, nên không thể thiếu giao lưu, trao đổi, hiệp thông, hiệp nhất mà chỉ
nhịp cầu Cầu Nguyện mới thực hiện được. Và vì không thể thiếu trong tương quan
giữa con người với Thiên Chúa, nên cầu nguyện là đòi hỏi hàng đầu và là giáo huấn
được Đức Giêsu quan tâm nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong Tin Mừng.
Trước hết, chúng ta hãy
chiêm ngưỡng Đức Giêsu trong cầu nguyện. Ngài đã luôn cầu nguyện cùng Thiên
Chúa, Cha Ngài, nhất là ở thời điểm của những biến cố quan trọng trên đường
truyền giáo :
·
Ngài
cầu nguyện khi chịu phép rửa của Gioan trên sông Giôđan : “Khi toàn dân đã chịu phép rủa, Đức Giêsu
cũng chịu phép rửa, và đang khi Người cầu nguyện, thì trời mở ra và Thánh Thần
ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tếng từ trời phán rằng :
Con là Con của Cha ; ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Lc 3,21-22).
·
Ngài
cầu nguyện trước khi chọn Mừơi Hai tông đồ : “Trong những ngày ấy, Đức Giêsu lên núi cầu
nguyện, và Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Đến sáng, Người
kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ” (Lc 6, 12-13).
·
Ngài
cầu nguyện trước khi lên đường rao giảng Tin Mừng : “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã
dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. Ông Simôn và vác bạn kéo nhau
đi tìm. Khi gặp Người, các ông thưa : Mọi người đang tìm Thầy đấy !” Người bảo các ông : “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng
xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc
đó. Rồi Người đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ
qủy” (Mc 1,35-39).
·
Ngài
cầu nguyện trước giờ bước vào cuộc tử nạn cứu thế : “Người đi ra núi Ôliu như đã quen. Các môn
đệ cũng theo Người”. Đến nơi, Người
bảo các ông : “Anh em hãy cầu
nguyện kẻo sa chước cám dỗ”. Rồi Người đi xa các ông một quãng… và qùy gối càu
nguyện rằng : “Lậy Cha, nếu Cha
muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng cho ý con thể hiện, mà là ý
Cha” (Lc 22,39-42).
·
Ngài
cầu nguyện trong giây phút cuối cùng của đời làm người, trên thánh giá với
tâm tình tha thiết của người con dành cho Cha mình : “Lậy Cha, con xin phó thác linh hồn con
trong tay Cha” (Lc 23,46).
Điều chúng ta nhận được
ở Đức Giêsu, chính là trong mọi hoàn cảnh và sinh hoạt, Ngài luôn cầu nguyện để
hiệp thông, hiệp nhất với Thiên Chúa Cha, nhất là để nhận ra và vâng phục thực
thi thánh ý của Chúa Cha, bởi đó là lẽ sống của Ngài : “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai
Thầy, và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4,34).
Chiêm ngắm Đức Giêsu
trong cầu nguyện cho chúng ta niềm xác tín về chỗ đứng không thể thiếu của cầu
nguyện trong đời người môn đệ Đức Giêsu
trên đường đi theo Ngài loan báo Tin Mừng. Và đó chính là lý do Giáo Hội đã chọn
“dụ ngôn quan toà
bất chính và bà goá quấy rầy” trong Tin Mừng Luca cho ngày Chúa Nhật truyền giáo,
mà ngay khởi đầu của dụ ngôn, thánh sử Luca đã nhấn mạnh trọng tâm : phải
kiên tâm khi cầu nguyện : “Đức Giêsu kể cho các môn đệ dụ ngôn sau đây, để dậy
các ông phải cầu nguyện luôn, không được nản chí” (Lc 18,1).
Trong dụ ngôn này, Đức
Giêsu đã vẽ lên hình ảnh một quan toà “chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì” (Lc 18,2), bên cạnh là một bà góa “nhây như điả” sẵn sàng ngồi lì, lải nhải ăn vạ ngày
này qua ngày khác để được toà minh xét cho. Hai hình ảnh đều qúa quắt : một
ông quan toà lãnh đạm, kiêu căng, bất chính ; một người đàn bà goá bụa già
hàm quấy rầy “có bằng cấp”. Người đàn bà ấy cần được quan toà minh
xét, nhưng ông không quan tâm đoái hoài, và phải chờ đến khi “bị mụ goá này quấy rầy” đến độ “nhức đầu nhức óc”, không còn chịu nổi nữa, ông quan toà
gian ác kia mới chịu thua mà xét xử cho xong, để mụ ta khỏi quấy rầy (x. Lc
2-5).
Đức Giêsu đã lấy lại lời
của ông quan toà: “Dầu rằng ta chẳng
kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì, nhưng mụ góa này quấy rầy mãi,
thì ta xét xử cho rồi, kẻo mụ ấy cứ đến hoài, làm ta nhức đầu nhức óc” (Lc 18,4-5) để dậy các môn đệ bài học cầu
nguyện, đó là : nếu ông quan toà bất chính kia cuối cùng đã phải xét xử vì
không muốn bị quấy rầy, thì Thiên Chúa là Đấng nhân hậu, giầu lòng thương xót, lại
hằng muốn cứu giúp, minh xử cho những ai kêu cầu Ngài lại không lắng nghe, mà lại
bắt những người Ngài yêu thương, tuyển chọn đang kêu cầu Ngài phải chờ đợi mãi
sao ? (x. Lc 18,6-7). Và Ngài quả quyết : “Thiên Chúa sẽ mau chóng minh xét cho họ” (Lc 18,8).
Điều chúng ta muốn chia
sẻ với nhau hôm nay trong chúa nhật truyền giáo chính là “nhà truyền giáo với cầu nguyện”, hay nói khác đi : sự cần thiết của
cầu nguyện trong sứ vụ truyền giáo :
1.
Không
cầu nguyện, truyền giáo chỉ còn là quảng cáo, tiếp thị :
Truyền giáo là loan báo
Tin Mừng, mà Tin Mừng là chính Đức Giêsu, nên truyền giáo không là công tác
tuyên truyền một chủ thuyết, rêu rao một luận điệu, qủang cáo một sản phẩm, rao
bán một món đồ. Truyền giáo không xử dụng những kỹ năng lôi kéo đám đông, hoặc
thủ thuật giành giật quần chúng như mị dân, mua chuộc, mồi chài, đe dọa, trấn
áp… nhưng tuyệt đối tôn trọng tự do đón nhận chân lý Tin Mừng của mỗi người.
Chính vì loan báo con
người Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người, mà nhà truyền giáo phải thuộc về
Con Người Thiên Chúa ấy, bởi không thuộc về Ngài, nhà truyền giáo không biết
gì, hiểu gì về Ngài, và như thế, nhà truyền giáo chỉ còn là nhân viên tiếp thị
của một công ty, nhân viên chào hàng, giới thiệu sản phẩm của một xí nghiệp, và
công việc này hoàn toàn không đòi nhân viên phải thuộc về ai, hay phải toàn tâm
toàn ý, yêu mến thiết tha người nào. Trái lại, loan báo Đức Giêsu, giới thiệu Đức
Giêsu đòi phải biết Ngài, yêu Ngài, trở nên giống Ngài, hiệp thông trong Ngài,
hiệp nhất với Ngài như “cành nho gắn liền
với cây nho” (Ga 15,4), bởi “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở
trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì
không có Thầy, anh em chẳng làm gì được. Ai không ở lại trong Thầy, thì bị
quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo” (Ga 15,5-6).
Ở đây, Đức Giêsu đã
không chỉ mời gọi các môn đệ hiệp thông, hiệp nhất với Ngài, mà còn quả quyết :
nếu không hiệp nhất, hiệp thông với Ngài thì không những “chẳng làm gì được”, mà còn “bị ném ra ngoài, rồi tự khô héo, tàn rụi
đi”. Như thế, việc
cầu nguyện tức gắn bó thiết thân, liên lạc chặt chẽ, mật thiết với Đức Giêsu
không còn là một đề nghi “làm cũng được, không làm cũng không sao”, nhưng là một lệnh truyền, một điều kiện
tất yếu mà bất cứ nhà truyền giáo môn đệ, tông đồ nào cũng phải triệt để thực
hiện.
Đức Giêsu còn long trọng
công bố : “Nếu anh em ở lai
trong Thầy và Lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì, anh em cứ xin, anh em sẽ
được như ý. Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là : Anh em sinh nhiều hoa
trái và trở thành môn đệ của Thầy” (Ga 15,7-8).
Thật không còn gì phải
nghi ngờ “Cầu Nguyện” là đòi hỏi thứ nhất, quan trọng nhất ở
nhà truyền giáo, và người môn đệ Đức Giêsu, bởi hoa trái thiêng liêng có được
nơi người được rao giảng Tin Mừng hoàn toàn hệ tại ở điều kiện “ở lại trong Đức Giêsu”, chứ không do khả năng rao giảng, kỹ
thuật loan báo hay do uy tín, ảnh hưởng cá nhân của nhà truyền giáo. Chẳng thế
mà thánh Phaolô đã tuyên tín : “Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà là Đức Kitô sống
trong tôi” (Gl 2,20) , sau
những năm tháng truyền giáo, với kinh nghiệm thiêng liêng của vị tông đồ dân
ngoại biết rõ mình chỉ có thể thực sự loan báo Tin Mừng, rao giảng Đức Giêsu
cách hữu hiệu và như ý Chúa muốn khi đạt đến tình trạng hoàn toàn tháp nhập đời
mình vào Đức Giêsu bằng sống đời cầu nguyện, bởi tương quan đích thực giữa
Thiên Chúa và con người chỉ được thiết lập “trong và nhờ” Đức Giêsu, như Đức Giêsu đã nói : “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy.
Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23).
2.
Không
cầu nguyện, nhà truyền giáo không thể đứng vững trước sóng gió của cám dỗ :
Nếu “ma qủy sàng chúng ta như sàng gạo” (x. Lc 22,31), thì chúng sàng các nhà
truyền giáo nhiều lần kỹ lưỡng hơn, bởi chúng vô cùng căm phẫn, thù ghét những
ai bỏ mọi sự vì Tin Mừng, hy sinh trọn đời vì Nước Trời, và sẵn sàng hiến thân
phụng sự Đức Giêsu và phục vụ Dân Ngài. Vì thế, nhà truyền giáo là đích điểm của
mọi đòn thù ác độc của thế gian và ma qủy,
như Đức Giêsu trước khi lên Giêrusalem chịu chết đã cảnh báo các tông đồ của
Ngài : “Nếu thế gian
ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước. Giả như anh em thuộc về
thế gian, thì thế gian đã yêu thích cái
gì là của nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, và tách
anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em… Họ sẽ làm tất cả những điều
ấy chống lại anh em, vì anh em mang danh Thầy” (Ga 15,18-19.21).
Và sự thật không thể chối
cãi, đó là ma qủy luôn tìm giăng bẫy các
nhà truyền giáo trên đường loan báo Tin Mừng bằng những cám dỗ rất thâm độc :
a. Cám
dỗ quyền lực :
Nhà truyền giáo là người
của quần chúng, vì gần gũi dân chúng, thường xuyên giao lưu, gặp gỡ đám đông,
nên dễ quên mình là sứ giả mà lầm tưởng mình là tác giả ; dễ quên mình là
khí cụ, mà ảo tưởng mình là ông chủ ; dễ quên mình là mục tử, mà mơ tưởng ngai vàng lãnh tụ ;
dễ quên mình là người được sai đi, mà hoang tưởng mình là người “cầm cân nẩy mực” mọi công trình, đường lối, kế hoạch ;
dễ quên lời đoan hứa : “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi” (Ga 3,30), mà ngạo mạn tạc tượng mình
cho thiên hạ sùng kính để rồi trở thành “nhà truyền giáo biến chất” khi kiêu căng, tự mãn, độc đoán, độc
tài, bất trị, vô cảm, nhẫn tâm, tàn ác.
Những ngày này, Đức
Thánh Cha Phanxicô không ngừng lên tiếng đả phá tinh thần giáo sĩ trị còn tồn tại trong Giáo Hội. Điều này phần nào
nói lên cơn cám dỗ quyền lực nơi nhà truyền giáo, và môn đệ Đức Giêsu vẫn còn
là ung nhọt làm nhức nhối Thân Thể mầu nhiệm của Ngài.
b. Cám
dỗ tìm thành công tức khắc, và thấy được :
Truyền giáo là giới thiệu
Đức Giêsu cho người khác, là gieo những hạt giống Tin Mừng trong lòng mọi người,
nên khao khát tự nhiên của nhà truyền giáo là mong thấy nhiều người trở lại đạo,
và con số tân tòng tăng vọt. Đây thực là một cám dỗ nguy hiểm, vì ma qủy sẽ lợi dụng ước mong thánh thiện ấy để
biến nhà truyền giáo thành một con buôn thuần vật chất, nghiã là để đạt thành qủa bên ngoài, tức khắc và thấy
ngay được, nhà truyền giáo sẽ tìm mọi phương thế mang tính trần tục, mọi mánh lới,
thủ đọan để lái mục đích đích thực của
truyền giáo sang mục tiêu tìm thành qủa bên ngoài, nhất thời, vật chất, xa dần
Tin Mừng, tách rời khỏi Đức Giêsu. Ma qủy sẽ làm cho nhà truyền giáo say men “thành qủa hoành tráng bên ngoài”, mà quên đi chân lý rất quan trọng, đó
là chính Thiên Chúa mới là người làm cho hạt giống mọc lên, mới là Đấng thánh
hoá, đổi mới, cứu độ, trong khi nhà truyền giáo không thể thánh hoá ai, cũng
không tự mình đổi mới được tâm hồn nào, nếu không có Thiên Chúa.
Thánh Phaolô đã xác tín
điều này khi ngài viết về vai trò thực sự của người rao giảng Tin Mừng trong
thư gửi giáo đoàn Côrintô : “Vậy Apôlô là gì ? Phaolô là gì ? Đó là những
tôi tớ đã giúp cho anh em có đức tin, mỗi người đã làm theo khả năng Chúa ban.
Tôi trồng, anh Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên. Vì thế, kẻ trồng
hay người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Đấng làm cho lớn lên, mới đáng
kể. Kẻ trồng, người tưới đều như nhau, nhưng ai nấy sẽ được thù lao tùy theo
công khó của mình. Thực vậy, chúng tôi là cộng sự viên của Thiên Chúa. Anh em
là cánh đồng của Thiên Chúa, là ngôi nhà Thiên Chúa xây lên” (1Cr 3, 5-9). Chỗ khác, thánh tông đồ
dân ngoại viết : “Nguyện xin Thiên
Chúa là nguồn mạch bình an thánh hoá toàn diện con người anh em” (1 Tx 5,23), để nói lên chân lý :
chỉ một mình Thiên Chúa là nguồn ơn sủng và chỉ một mình Ngài ban ơn thánh hoá
các tâm hồn.
Như thế, nhà truyền
giáo phải tôn trọng quyền “làm lớn lên, và thánh hoá” của Thiên Chúa bằng tin tưởng vào mầu
nhiệm của thời gian trong công cuộc cứu độ, để không nóng nẩy, vội vàng, luống
cuống, bực bội khi hạt giống được gieo chưa nẩy mầm đúng kỳ hạn, người tội lỗi
chưa hối cải, ăn năn đúng ngày giờ mình muốn, người được rao giảng mãi chưa ngỏ
lời xin theo đạo, vì chỉ Thiên Chúa mới biết khi nào và cách nào hạt giống sẽ nảy
mầm và cây lớn lên. Phần nhà truyền giáo, với cái nhìn đức tin và niềm xác tín ở
mầu nhiệm thời gian trong công trình cứu độ sẽ bình an, kiên nhẫn rao giảng mà
không tìm đốt giai đọan, rút bớt thời gian với tham vọng tìm kết qủa tức thời,
thấy được ngay trước mắt của thế gian.
3. Cám dỗ bỏ cuộc, đào ngũ khi gặp khó khăn, thất
bại :
Nếu ma qủy cám dỗ nhà truyền giáo khao khát những
thành công cấp thời, và bên ngoài, thì chúng cũng cám dỗ nhà truyền giáo bỏ cuộc,
bỏ hàng ngũ khi không thành công, bị hiểu lầm, gặp khó khăn. Ngoài cám dỗ buông
xuôi, bỏ cuộc khi thất bại, bị khiển trách hay sơ sót, lỡ lầm trong nhiệm vụ đuợc
trao phó, nhà truyền giáo còn bị cám dỗ nặng nề bỏ hàng ngũ khi bị chính anh em
mình hiểu lầm, hàm oan, xử ép.
Sở dĩ Đức Giêsu đã không ngớt khuyên các
tông đồ, môn đệ của Ngài : “Anh em hãy thương yêu nhau”, và “Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng
con là môn đệ của Thầy” (Ga 13,34-35),
vì Ngài biết “không yêu thương
nhau” là cơn cám dỗ
kinh khủng, và tàn phá nhất, bởi khi không còn yêu thương, người ta trở thành
lang sói của nhau ; khi đánh mất đức ái, môn đệ không thể nhận ra mình là
anh em với nhau, vì cùng có một Thiên Chúa là Cha, và một Thầy là Đức
Giêsu ; khi tình yêu thương không còn hiện diện, nhà truyền giáo sẽ không còn “ở trong, ở với” Đức Giêsu nữa, mặc dù chính Ngài vừa là Đấng sai
nhà truyền giáo đi, vừa là lẽ sống của nhà
truyền giáo, vừa là đối tượng của công cuộc rao giảng. Do đó, tâm hồn truyền
giáo sẽ trống vắng, trái tim truyền giáo sẽ lạnh tanh, đôi chân truyền giáo sẽ
chùn bước, niềm vui truyền giáo sẽ tắt lịm, và con đường truyền giáo sẽ đóng lại,
tắc nghẽn. Từ đó, cám dỗ buông xuôi, bỏ cuộc, rời hàng ngũ sẽ chiếm đọat toàn
thể con người và đời sống nhà truyền giáo.
Tóm lại, ngày cầu nguyện
cho truyền giáo, Hội Thánh đã không nhắc nhở gì ngoài cầu nguyện, khi chọn dụ ngôn “Quan toà bất chính và bà goá quấy rầy” (Lc 18,1-8) làm Tin Mừng cho ngày lễ, bởi
Mẹ Hội Thánh biết : không cầu nguyện, sẽ không có truyền giáo, vì nhà truyền
giáo thiếu cầu nguyện sẽ biến thái thành nhà qủang cáo, nhân viên tiếp thị, vì
không có Đức Giêsu, Đấng sẽ làm cho hạt giống Tin Mừng lớn lên. Thiếu cầu nguyện,
nhà truyền giáo cũng không thể đứng vững trước vô số cám dỗ, mà ở đây, chỉ nêu
ra một vài cám dỗ tiêu biểu, như Đức Giêsu hằng nhắc nhở : “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi
sa chước cám dỗ” (Mt 26,41).
Và để thực hiện điều
Thiên Chúa mong ước trên, chúng ta phải cậy đến ơn phù trợ của Chúa Thánh Thần,
Đấng làm cho chúng ta nên nghiã tử của Thiên Chúa “nhờ đó, chúng ta được kêu lên : “Ápba ! Cha ơi !” (Rm 8,15), và “dậy chúng ta biết cầu nguyện thế nào cho
phải”, đồng thời “cầu thay nguyện giúp chúng ta”, cũng như “cho dân thánh theo đúng ý Thiên Chúa” (x. Rm 8,26-27). Cũng với tác động của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội
truyền giáo đã được khai sinh trong ngày lễ Ngũ Tuần khi “từ trời bỗng phát ra một tiếng động như
tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi mọi người đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất
hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai
nấy đều đuợc tràn đầy Thánh Thần…” (Cv 2, 1-4).
Hiệp thông cùng Giáo Hội,
chúng ta xin Chúa ban cho mọi tín hữu, trong đó có chúng ta tinh thần truyền
giáo ngày càng thăng tiến, lớn lên với đời cầu nguyện.
Jorathe Nắng Tím