Pages - Menu

Thứ Bảy, 30 tháng 11, 2019

GIÁNG SINH : MẦU NHIỆM THIÊN CHÚA CẦN CON NGƯỜI ĐỂ CỨU CON NGƯỜI

Mỗi lần Giáng Sinh về, chúng ta ai nấy đều chiêm ngưỡng và thờ lậy Thiên Chúa trong mầu nhiệm Nhập Thể : mầu nhiệm vì yêu thương chúng ta trước khi chúng ta yêu mến Người, Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống (1 Ga 4,9) ; mầu nhiệm Ngôi Lời đã trở nên nguời phàm và cư ngụ giữa chúng ta (Ga 1,14) và Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời của Thiên Chúa, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự (Pl 2,6-8) để làm của lễ đền tội cho chúng ta (1 Ga 4,10) cho chúng ta được sống và sống dồi dào (Ga 10,10).
Vâng, khi cộng đoàn phụng vụ cùng qùy gối kính cẩn và sốt sắng suy tôn Mầu Nhiệm Nhập Thể của Ngôi Hai Thiên Chúa khi tuyên xưng Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria và đã làm người, chúng ta thờ lạy Tình Yêu vô cùng và đến cùng của Thiên Chúa đã thương loài người và cứu chúng ta khỏi chết đời đời, do hậu qủa của tội nguyên tổ, nhưng đồng thời cũng là giây phút chúng ta cảm tạ Thiên Chúa về vinh dự và hạnh phúc được cộng tác với Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người trong công trình cứu chuộc loài người của Ngài.
Thực vậy, bên cạnh công cuộc Cứu Độ về phiá Thiên Chúa, mà chúng ta không bao giờ quên, còn một khiá cạnh khác mà chúng ta có thể không để ý để cảm tạ Thiên Chúa cho xứng đáng, đó là Thiên Chúa cần chúng ta cộng tác với Ngài, Thiên Chúa cho phép con người được làm việc với Ngài, cụ thể là Đức Giêsu cần sự đóng góp của mỗi người để cứu chuộc mọi người như mặc khải của Tin Mừng. Nói cách khác, Thiên Chúa không cứu độ đơn phương, đơn độc, tự động, máy móc, nhưng cần con người để cứu độ con người. Đây không phải kiểu nói làm giảm quyền năng cứu độ của Thiên Chúa, hay lối nhìn của nhân bản thuyết tìm cách nâng cao giá trị con người, càng không là xảo thuật kéo Thiên Chúa toàn năng xuống thấp một chút, và nâng con người có giới hạn lên một nấc cao hơn để hai bên Thiên Chúa - Con người ngang hàng, cùng cỡ. Trái lại, đây là mầu nhiệm của Tình Yêu, khi Thiên Chúa trân trọng và ưu ái con người được dựng nên bởi Ngài và với hình ảnh của Ngài và ban cho con nguời vinh dự làm con để hưởng quyền thừa kế, vinh dự làm anh em và bạn hữu, để được chia sẻ và thông phần ước mơ, thao thức, kế hoạch, công trình Cứu Độ loài người của Thiên Chúa.
Qủa thực, với quyền năng vô cùng, Thiên Chúa không nhất thiết cần đến con người để xuống thế làm người, không cần con người để cứu chuộc con người, vì Ngài có thể tự mình sừng sững có mặt trong thế giới loài người mà không cần cung lòng của Đức Trinh Nữ Maria ; có thể lấy quyền của Đấng Chủ Tạo mà áp đặt mọi người phải đi theo, mà không cần những con người tông đồ, môn đệ đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ…, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền (Mt 28,19-20). Trái lại, Tin Mừng đã làm chứng ngược lại, khi cho chúng ta thấy : Thiên Chúa của Đức Giêsu là Thiên Chúa yêu thương con người đến độ cần con người, cần mỗi người để cứu chuộc mọi người.
Vì cần con người cộng tác để cứu con người khỏi chết đời đời, sau khi con người phạm tội, Thiên Chúa đã đi vào lịch sử nhân loại bằng những bước chân đồng hành để yêu thương, bảo vệ, chăm sóc, giáo dục, thánh hoá, và lịch sử nhân loại cũng như lịch sử dân riêng Thiên Chúa đã là lịch sử của lòng thương xót vô bờ bến, như Đức Maria đã hạnh phúc thốt lên trong Kinh Tán Tụng Magnificat : Từ đời nọ đến đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người (Lc 1,50). Vì cần con người chia sẻ công việc Cứu Thế với mình, Thiên Chúa đã cần đến lời Xin Vâng hoàn toàn tư do, tự nguyện của thiếu nữ Maria, quê làng Nadarét, một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít (Lc 1,27) để Ngôi Hai Thiên Chúa làm người trong cung lòng một người nữ, giữa một gia đình, ở một địa điểm trên địa cầu, và tại một thời điểm trong giòng lịch sử nhân loại, nghiã là Thiên Chúa không xuống thể kiểu nhẩy dù, có sẵn, nhưng làm người trăm phần trăm, như bao nhiêu con người khác trong từng chi tiết, và theo đúng tiến trình : được thụ thai, sinh ra, lớn lên, và chết, với tất cả trí khôn, ý chí, tình cảm của con người chính danh, sống động, cụ thể. Vì cần những cộng sự viên là con người cho chương trình loan báo Tin Mừng : Thiên Chúa xót thương, và cứu độ dân Người, Đức Giêsu đã bắt đầu đời mục vụ của Ngài bằng kêu gọi các môn đệ, bắt đầu là bốn môn đệ đầu tiên : Simôn, cũng gọi là Phêrô, và người anh là Anrê… và hai anh em khác con ông Dêbêđê là ông Giacôbê và người em là ông Gioan (Mt 4,18.21), tất cả đều là những ngư phủ đang quăng chài, vá lưới. Vì cần con người cộng tác trong công cuộc cứu chữa con người, Đức Giêsu đã không làm phép lạ kiểu đại trà, nhưng chỉ làm phép lạ chữa tật bệnh cho những ai có lòng tin như người bại liệt (x.Lc 5,17-20), những người khiêm nhường tín thác như ông sĩ quan đại đội trưởng ngoại giáo (x. Lc 7,1-10), những người tuyệt đối tin tưởng chỉ một mình Thiên Chúa mới cứu chữa được như người đàn bà bị băng huyết đã mười hai năm (x. Lc 8,43-48), những nguời nhận mình yếu đuối, thiếu thốn, tật nguyền và  tha thiết xin Thiên Chúa dủ lòng thương xót như anh mù Timê ở Giêrikhô (x. Mc 10,46-52), những người kiên trì trong cầu nguyện như người đàn bà ngoại giáo xứ Canaan đã chẳng tự ái, giận dỗi khi thưa với Đức Giêsu : Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống », mặc dù Đức Giêsu đã cứng rắn nói với bà : Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con (Mt 15,26-27), khi bà lèo nhèo năn nỉ Ngài chữa con gái bà bị quỷ ám. Vì cần con người cùng với Ngài làm chứng Nước Thiên Chúa đã gần, Đức Giêsu đã chỉ làm phép lạ biến nước thành rượu ngon, khi con người đã đóng góp công sức, như các gia nhân trong tiệc cưới ở Cana đã vâng lời Ngài đổ nước đầy các chum (x. Ga 2,1-11), cũng như đã hoá bánh ra nhiều để nuôi hàng ngàn người ăn no nê, với năm chiếc bánh lúa mạch và ba con cá của một em bé (x. Ga 6, 5-11). Vì cần con người để tình yêu thương xót của Ngài được lan toả đến mọi tâm hồn, Đức Giêsu đã tha thứ cho những người tội lỗi biết lấy nước mắt tình yêu tưới ướt chân Người như người phụ nữ trắc nết trong bữa tiệc ở nhà người Pharisêu (x.Lc 7,36-50), hay như người đàn bà ngoại tình lặng lẽ lê từng bước nhục nhằn, đau khổ, và cúi sâu mặt nhận mình yếu đuối (x. Ga 8,1-11). Vì cần con người để làm chứng Thiên Chúa là sự sống lại và là sự sống (Ga 11,25), Đức Giêsu đã cho Ladarô sống lại, ra khỏi mồ sau ba ngày, khi có giòng lệ yêu thương, và tin tưởng của Mátta  qua tiếng khóc nức nở thương tiếc nhưng tràn đầy hy vọng của cô : Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây thì em con đã không chết. Nhưng bây giờ con biết : Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy (Ga 11,21-22).
Như thế, Thiên Chúa đã không độc quyền một mình sử dụng quyền năng vô hạn của mình để cứu chuộc con người, nhưng đã cho phép con người hữu hạn, với rất nhiều giới hạn được đóng góp vào quyền năng vô hạn của Ngài trong công việc cứu chuộc con người của Ngài. Tuy biết con người chỉ là giọt nước nhỏ bé trong đại dương bao la là Ngài, nhưng vì yêu thương, Thiên Chúa luôn ưu ái và trân trọng giọt nước bé nhỏ ấy, bằng đợi chờ từ giọt nước có tên con người phần đóng góp, cộng tác vào công trình của Thiên Chúa, dù đóng góp ấy không đáng kể, và cộng tác ấy chẳng là gì so với quyền năng vô hạn, và sức mạnh vô biên của Đấng dựng nên trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình (Kinh Tin Kính) .
Thế mới biết Thiên Chúa yêu thương con người đến độ nào, bởi không yêu thương, Ngài đã không cần đến con người ; không yêu thương, Ngài chẳng phải trân trọng những đóng góp chẳng làm nên tích sự của con người vốn hữu hạn, yếu đuối, khờ dại ; không yêu thương, Thiên Chúa cũng chẳng phải kiên nhẫn đợi chờ quyết định tự do của con người như đã luôn mời gọi và cho con người toàn quyền chọn lựa và trả lời : có hay không, chấp thuận hay từ chối, đi theo hay rời bỏ, trung thành hay phản bội. Và sẽ mãi mãi đến tận cùng thời gian, và với từng người bất luận ở đâu, Thiên Chúa cũng vẫn một lòng thương xót và trân trọng đón nhận mọi cố gắng, đóng góp, cộng tác của con người trong công cuộc cứu độ con người của Ngài, mặc dù Ngài là Thiên Chúa toàn năng.
Đây chính là nét tuyệt vời của mầu nhiệm Nhập Thể, vì Thiên Chúa không chỉ đến cứu con người, mà còn cho con người được cộng tác với Thiên Chúa vào nhiệm cuộc cứu chính mình và cứu anh em mình cùng với Thiên Chúa, với điều kiện con người phải ở trong Thiên Chúa, bởi chỉ trong Thiên Chúa, mỗi người  mới được là chi thể của Thân Thể mầu nhiệm có Đức Giêsu là Đầu ; trong Thiên Chúa, mỗi người được sống chính sự sống của Thiên Chúa như thánh Phaolô đã xác tín : Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi (Gl 2,20) ; trong Thiên Chúa, sự yếu đuối của con người được trở nên sức mạnh, như thánh tông đồ dân ngoại qủa quyết : Tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi. (2 Cr 12,9) ; trong Thiên Chúa, mỗi người  là cành nho gắn liền với cây nho để sinh nhiều hoa trái (Ga 15,4) ; trong Thiên Chúa để anh em không còn là tôi tớ. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết (Ga 15,15).
Được biết tất cả những gì Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người nghe được nơi Chúa Cha, và được mời gọi làm việc với Ngài, đó là vinh dự lớn lao và hạnh phúc khôn tả Đức Giêsu dành cho những ai yêu mến và tự nguyện cộng tác với Ngài. Những cộng sự viên của Đức Giêsu trong mầu nhiệm cứu độ trước hết là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành (Lc 8,21), những người sống tinh thần Bát Phúc : nghèo khó, hiền lành, khiêm nhường, chịu thiệt thòi, sầu khổ, bị bách hại vì danh Thiên Chúa, có tâm hồn trong sạch, khát khao điều công chính, biết chạnh lòng thương xót, và ra sức kiến tạo hoà bình (x. Mt 5,3-11). Họ còn là những người chấp nhận bỏ mọi sự, và xóa mình, vác thập giá đi theo Đức Giêsu (x.Mt 16,24), những người kiên tâm chịu đựng và cùng chết với Đức Giêsu. (2Tm 2,12), những người vui mừng được chịu đau khổ vì anh em mình như thánh Phaolô đã viết cho tín hữu Colôxê : Những gian nan, thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích của thân thể Người là Hội Thánh (Cl 1, 24).
Vâng, Giáng Sinh về, Thiên Chúa dẫn chúng ta đi vào Mầu Nhiệm Nhập Thể của Ngài, trong đó, chúng ta được cảm nghiệm và sống Tình Yêu cao vời của Thiên Chúa dành cho con người, và vinh dự, hạnh phúc của con người được chia sẻ, chung phần, cộng tác với Thiên Chúa với cương vị con cái, anh em, bạn hữu của Ngài trong nhiệm cuộc cứu độ.
Xin EMMANUEL – Thiên Chúa ở cùng chúng ta mở lòng, để mỗi người khiêm tốn nhận ra thân phận yếu đuối, giới hạn của mình trước vô hạn, vô cùng, vô biên của Thiên Chúa, đồng thời đón nhận hồng ân được kêu gọi trở nên những cộng sự viên trung tín, những khí cụ ngoan ngùy, dễ thương trong tay Thiên Chúa toàn năng, Đấng yêu thương và trân trọng con người, dù phận người lúc nào và ở đâu cũng luôn nhỏ bé, mỏng dòn, dễ vỡ, tội lụy.
Jorathe Nắng Tím   

Thứ Sáu, 29 tháng 11, 2019

VĂN HÓA XIN LỖI

Tha thứ cho người khác là việc làm khó, vì đòi nhân ái và trái tim quảng đại, bao dung. Phải có lòng nhân mới nhận ra người xúc phạm, làm tổn thương mình còn nhiều giới hạn không vượt qua được, nên đã có lỗi với mình ; cũng như phải quảng đại, bao dung mới có thể xí xoá, bỏ qua những bất công người khác đã gây cho mình. Tuy khó, nhưng tha thứ vẫn còn dễ hơn xin lỗi, vì dù sao người tha thứ vẫn ở kèo trên, với thế thượng phong, đang khi người xin lỗi bị coi là thua cuộc, thất thế.
Vì xin lỗi ai là xin người ấy thứ tha lầm lỗi, bỏ qua thiếu sót, xóa đi tội lụy, quên đi hậu qủa xấu mình đã gây ra cho họ, nên xin lỗi tự nó là một hành động của người biết mình có lỗi, làm tội ; là thái độ hối lỗi, nhìn nhận khuyết điểm, thiếu sót mình đã vô tình hay cố ý sai phạm ; là việc làm của người đã gây ra thiệt hại cho người khác có nghiã vụ phải đền bù ; là đứng vào vị thế của người xin và đợi chờ người khác chấp thuận.  
Chính vì quan niệm và định nghiã không mấy tích cực của xin lỗi, mà nhiều người sợ xin lỗi, ngại xin lỗi, né tránh xin lỗi và sau cùng là không bao giờ xin lỗi. Không bao giờ xin lỗi vì không muốn mất thế, mất cửa, mất đẳng cấp, số má, khi cố tìm cho kỳ được lý do, dù chỉ là lý cùn để biện minh cho cái lỗi to tướng, cái tội rành rành, không thể chối cãi ; tránh né xin lỗi, vì xin lỗi phải tự hạ mình, tự xóa mình, tự làm mất đi một phần cái tôi vĩ đại ; ngần  ngại xin lỗi, vì phải ngượng ngùng đứng trước người có quyền tha tội, thứ lỗi cho mình ; sợ xin lỗi vì nghĩ người mình xúc phạm, làm tổn thương nay có cớ khinh khi, coi thường, đánh giá thấp, và có dịp lên lớp dậy dỗ, khuyên bảo, sửa sai mình.
Chỉ một vài gợi ý trên, chúng ta cũng đủ để thấy cái khó của xin lỗi, cái căng thẳng, xì trét khi phải cúi đầu xin lỗi, cái chán ngán khi phải ấp úng xin lỗi, cái mệt mỏi khi phải tìm lời xin lỗi, và cái cảnh đỏ mắt tía tai vì mắc cở khi xin lỗi. Và qủa thực, xin lỗi thật vất vả, khó khăn, ngượng ngùng !
Vì khó khăn, nên nhiều người không xin lỗi, dù biết mình làm lỗi ; cố tình lấp liếm lầm lỗi để khỏi phải xin lỗi ; lại có người cối chầy, ngang ngược, bất chấp điều sai trái mình đã làm, và thề cả đời sẽ chẳng xin lỗi ai. Cũng thế, vì vất vả, nên xin lỗi ngày càng trở thành chuyện cũ xa xưa, không còn hợp thời, thức thời, nếu không muốn nói là ngu ngơ, lập dị, đến nỗi người có văn hoá xin lỗi lại bị coi là khùng điên, dớ dẩn, thần kinh, tâm thần, lạc hậu …   
Rất nhiều tương quan ngày nay đang bên bờ đổ vỡ, không vì hoàn cảnh ngoại tại cho bằng vì người trong cuộc đã không đủ lương thiện để nhìn ra lầm lỗi, khiêm tốn để nhận lỗi, càng không đủ dũng cảm để xin lỗi, vì lầm tưởng : xin lỗi là đánh mất phẩm giá, hạ thấp danh dự, giảm thiểu uy tín của mình ; vì mang nặng não trạng : xin lỗi là yếu, là hèn, là ngu, là hiến cho thiên hạ dịp tốt, cơ may lấn lướt, giập vùi, đàn áp, đè đầu cưỡi cổ mình, nên dễ quên : lương thiện, khiêm tốn,  dũng cảm, công bình là những đức tính căn bản của con người, những điểm son của nhân vị, nét đẹp sáng ngời của nhân cách.
Thực vậy, để nhìn ra lầm lỗi, phải lương thiện, bởi không lương thiện, người ta sẽ rơi vào tình trạng : hoặc gian ngoa chạy tội, hoặc đổ lỗi cho người khác ; hoặc bai bải chối quanh, hoặc vấy vá đổ thừa hoàn cảnh. Lương thiện là thái độ của người trưởng thành khi dám nhìn thẳng vào việc làm của mình với những hậu qủa của nó. Việc làm tốt với kết qủa tốt, hay việc làm xấu với hậu qủa làm tổn thương người khác đều được nhìn dưới ánh sáng của lương tâm trong sáng, ngay thẳng, và đó chính là nét đẹp nhân văn rất cao qúy của người trưởng thành. Một khi đã lương thiện nhìn thẳng việc làm sai trái, người trưởng thành sẽ không dừng ở đó, nhưng tiến đến hành động khiêm tốn nhận lỗi, vì nhận lỗi là việc làm tất nhiên sau khi nhìn ra lầm lỗi một cách lương thiện. Họ sẽ không hèn nhát đổ vấy cho người khác, không kiêu căng vô trách nhiệm quy trách cho người  cộng sự, càng không ngạo mạn, nhẫn tâm, tàn ác bắt người khác, nhất là những người nhỏ bé, yếu kém, ngu si hơn mình phải nhận tội, chịu lỗi thay mình. Và công đọan cuối cùng cũng không kém cao thượng là dũng cảm mở lời xin lỗi người mình đã gây thiệt hại cách này cách khác, vật chất hay tinh thần, mà không tự ty, mắc cở, để trả lại sự công bình do bất công mình đã gây nên.
Tóm lại, bản chất của việc làm Xin Lỗi không là hành vi hèn nhát, nhu nhược, đánh mất mình, nhưng là hành vi và thái độ cao đẹp, cao thượng, cao qúy của người trưởng thành có lương thiện, khiêm tốn, dũng cảm, và công bình. Họ là những con người làm cho gia đình hạnh phúc, xã hội an lạc, thế giới hoà bình, vì biết xin lỗi khi làm lỗi, biết trả lại công bằng khi gây thiệt hại, tổn thương, nhất là qua Xin Lỗi, tương quan giữa người với người không rơi vào tình trạng đổ vỡ, bế tắc, bởi Xin Lỗi có khả năng tháo gỡ được tất cả những khúc mắc, giải toả được mọi căng thẳng, và đem lại bầu khí cảm thông, tôn trọng, xây dựng, an bình.
Ước mong nền văn hoá xin lỗi được mọi người tiếp tay phát huy, cổ vũ, để cơn sốt bạo lực không còn mãnh lực tàn phá con người và những giá trị nhân bản, đạo đức trên quê hương chúng ta, bởi hầu hết những thảm cảnh tang thương xẩy ra hằng ngày trong gia đình, giữa láng giềng, hàng xóm, ở sở làm đều phát sinh do thiếu một lời xin lỗi phát xuất từ trái tim lương thiện, khiêm nhường, dũng cảm, công bình của người trưởng thành, có văn hoá mà ở đâu và thời nào cũng luôn được trân trọng, yêu mến, noi gương.
Jorathe Nắng Tím         

Thứ Tư, 27 tháng 11, 2019

GIẤC MƠ ĐƯỢC THƯƠNG XÓT


Đêm qua con mơ mình chết. Con thấy rõ mình chết đơn độc ở một nơi hoang vắng. Không người, không thú, không tiếng lá cây reo, không tiếng côn trùng nỉ non khóc. Và con đã  chết một mình trong chơi vơi sợ hãi …
Sáng thức dậy, con vẫn nhớ như in cảnh tượng giờ chết, và những gì con đã nghe ở giờ lâm chung.
Con nhớ trong nỗi kinh hoàng của người sắp bỏ lại phiá sau cuộc đời, hình ảnh Thánh Giá của Đức Giêsu chịu đóng đinh. Ngài hoàn toàn yên lặng. Có rất nhiều tiếng ồn ào inh ỏi, kể cả gào thét, và chửi rủa thô tục. Đủ mọi ngôn ngữ, đủ mọi giọng miền, đủ mọi cung bậc, ai cũng nhao nhao cố nói cho được điều mình muốn nói. Họ hướng cả về Thánh Giá của Đức Giêsu mà hét to hơn, nói lớn hơn, gào mạnh hơn, nhưng Đức Giêsu vẫn cúi đầu lặng lẽ, không trả lời ai.
Tuy sợ hãi rụng rời, con vẫn đăm đăm nhìn Ngài và vểnh tai nghe người ta nói gì với Ngài. Có nhiều người trách móc Ngài đã không cứu họ khỏi chết, có người lên án Ngài là tên lừa bịp nhận mình là Thiên Chúa mà không tự cứu được mình, có người bực bội trút lời thô tục rủa xả và quy tội Ngài đã để họ phải sinh ra, có người cười nhạo khoái trá, có người trịch thượng hạch hỏi, cũng có người lờm tởm nhổ nước bọt hắng giọng khinh bỉ rồi bỏ đi. Con thấy tất cả những người này đều muốn nhận được câu trả lời của Đức Giêsu từ  trên Thánh Giá nhưng tuyệt nhiên Ngài không nói gì, không trả lời ai, vẫn gục đầu yên lặng.
Thấy Ngài gục đầu thấp hơn, và yên lặng sâu hơn, con càng lo sợ, kinh hãi, vì hơn ai hết, con cần được nghe Ngài nói, cần Ngài sống để cứu con, nhưng lạ lắm, sự yên lặng xem như thất thế, và tư thế  cúi đầu của người bị đánh gục của Đức Giêsu đã làm con cứng lưỡi, đơ họng, không nói được lời nào. Không biết có phải con nghi ngờ, không tin Ngài là Thiên Chúa, hay con không tin con là người có thể được cứu độ, vì con rất bệ rạc, tội lỗi ? Và mỗi bước nhanh hơn, đến gần hơn ngưỡng cửa vào sự chết, sự yên lặng thất bại của Đức Giêsu chịu đóng đinh càng làm con bối rối, nghi nan. Cho đến lúc chân phải con vừa chạm  ngưỡng cửa sự chết, thì bất ngờ có tiếng nói mà con nhận ra ngay là người gian phi đã được hứa Nước Thiên Đàng ngay hôm nay (x.Lc23,43).
  anh gian phi được phúc lớn đã ân cần chỉ bảo con : Này bạn, chớ có ăn nói hàm hồ, linh tinh, tào lao như những người đang chửi rủa, thách thức, lên án, diễu cợt Thiên Chúa. Bạn thấy đó, trước những câu hỏi  bất mãn,  những hạch hỏi phạm thượng, những chất vấn  phản phúc của những  người uất hận, kiêu căng, ích kỷ, vô ơn, Đức Giêsu đã không trả lời, cũng chẳng phân bua, giải trình, biện hộ, nhưng yên lặng cúi đầu.
Con nắm chặt tay anh, vì lúc này, anh đã lại gần bên con, và thân thiện đưa tay cho con nắm. Con đánh bạo hỏi : Nhưng tại sao Đức Giêsu lại trả lời anh và hứa cho anh Nước Thiên Đàng ngay hôm nay ?.
Nghe thế, mặt anh rạng ngời hạnh phúc và ôm lấy con căn dặn : Đúng vậy, trên Thánh Giá hôm ấy, ngoài những lời than thở, cầu nguyện với Chúa Cha : Lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con ? (Mc 15,34), Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm (Lc 23,34), Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha (Lc 23,46), và lời trăn trối với thân mẫu : Đây là con Bà, và với môn đệ Gioan : Đây là Mẹ con (Ga 19,26-27), Đức Giêsu đã không trả lời ai điều gì, ngoài nói với anh : Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng (Lc 23,43).
Con vội vàng hỏi : Nhưng anh hỏi Ngài điều gì và với cách nào mà Ngài đã trả lời anh, trong khi rất nhiều người khác nhao nhao, nhốn nháo lớn tiếng hỏi, mà Ngài vẫn cúi đầu yên lặng ?.
Anh đâu dám hỏi Ngài, mà anh có gì đâu mà hỏi, bởi suốt đời làm nghề ăn cướp, ăn ở bất lương, bất chính, tội lỗi đầy mình, có nhân đức, công trạng gì mà khiếu nại, kêu oan. Thấy Ngài vô tội, bị chết oan, mà chẳng thở than điều gì, hay oán trách ai, lại bao dung xin Thiên Chúa tha cho cả kẻ làm khốn mình, nên anh cảm phục, yêu mến Ngài, và tin Ngài chính là Con Thiên Chúa, bởi loài người, chẳng ai có thể yêu thương, rộng lượng như Ngài. Và vì tin yêu Ngài, anh đánh bạo xin Ngài thương xót, nhớ đến anh trong Nước vinh quang của Ngài. Không ngờ, Ngài cố nghiêng đầu qua phiá anh và âu yếm hứa : Ngay hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng. Dứt lời, anh rút nhẹ tay con ra, và biến mất. 
Chiều nay, cũng một mình, nhưng trong nghiã trang, như có lần mơ thấy thiên thần dắt con đi xem phần mộ của mình. Lá vàng đua nhau lã chã rơi phủ kín các dẫy mộ, sau mỗi cơn thở dốc của gió thu se lạnh, dưới bầu trời giăng kín mây xám buồn.
Hình ảnh và tiếng nói của anh thánh trộm lành vẫn mồn một, rõ nét trong con, và con khấp khởi vui mừng vì được anh thánh tận tình căn dặn :
Chúa chỉ trả lời những ai khiêm tốn xin Ngài thương xót, như đã trả lời và làm phép lạ chữa lành, xua đuổi ma qủy, cứu sống những ai xin Ngài xót thương, vì chỉ có lời cầu Xin Chúa thương xót con, xin Chúa thương xót chúng con mới làm Chúa chạnh lòng, vì Ngài là Lòng Thương Xót ; chỉ  lời nguyện nài xin ơn Thương Xót mới được Chúa đón nhận, bởi chúng ta không là gì, và chẳng có gì vĩ đại để hạch hỏi, yêu cầu, lại vô cùng bất xứng để  có thể khiếu nại, kể công. Chúng ta là tội nhân, chỉ có tội, có lỗi, có thiếu sót khuyết điểm, nên chỉ có thể khiêm tốn nài xin lòng thương xót.  
Nhớ lời anh dặn, con tập ngay từ bây giờ lời cầu xin của giờ lâm tử : Lạy Đức Giêsu, Thiên Chúa của con, xin thương xót và nhớ đến con !.
Ngước nhìn Thánh Giá giữa nghiã trang, con tạ ơn Chúa, cám ơn anh thánh gian phi, vì từ nay, con được bình an bước đi từng ngày gần về sự chết, như ngưỡng cửa vào Đời Sau, nhờ con đã được vị thánh đầu tiên do chính Đức Giêsu tuyên phong dặn dò : phải thưa với Chúa điều gì và thưa như thế nào ở giờ lâm chung. 
Jorathe Nắng Tím
   

“TỘI ÁC GIA ĐÌNH”

Nếu cụm từ Bạo lực gia đình thường được dùng để nói về những màn hành hung, đánh vợ như đánh quân thù, hay những cuộc cãi vả  giữa đêm khuya thường kết thúc bằng tiếng la khóc nhói tim, đánh thức hàng xóm, làm phiền láng giềng của người vợ mặt mũi tím bầm, áo quần xốc xếch bò lê bò càng dưới mũi giầy của anh chồng vũ phu, thì cụm từ ấy hôm nay xem ra không còn đủ khả năng diễn tả hết ý nghiã và sức nặng ngàn cân của những tội ác vô cùng ác đang thi nhau làm đổ máu, cướp đi mạng sống của người thân trong gia đình.
Thực vậy, cụm từ bạo lực gia đình làm sao có thể cân được tội ác của một Nguyễn Văn Đông sáng sớm ngày 1/9/2019  đã cầm dao qua nhà em ruột ở Đan Phượng, xã Hồng Hà, Hà Nội  và lấy đi mạng sống của  vợ chồng em trai  Nguyễn Văn Hải - Doãn Thị Việt, cháu gái Nguyễn Thị Bắc và bé Nguyễn Đỗ Huyền My, sinh ngày 22/6/2018, con của Đỗ Thị Hồng Nhung, con dâu ông Hải, người bị chém trọng thương, nhưng  may mắn sống sót; bạo lực gia đình sao đủ  vai rộng vác tội ác của Bùi Xuân Hồng ở Thái Nguyên, chỉ sau hai tuần cuộc thảm sát ở Đan Phượng, tối ngày 14/9/2019 đã chém  vợ chồng em gái Bùi Thị Hà, và cháu rể Nguyễn Thành Vương ; bạo lực gia đình làm sao đủ sức gánh gồng  tội ác qúa nặng nề của con rể Lưu Văn Nghiã ở thị xã Phổ Yên, Thái Nguyên, ngày 22/11/ 2019 đã dùng dao đâm  chết  mẹ vợ, làm trọng thương bố vợ, và bạo lực gia đình xem ra không còn số má, nói theo kiểu tay chơi, giang hồ để lý giải tội ác tầy trời của mẹ kế La Thị Thức khoảng trung tuần tháng 11/2019 đã  giết con trai riêng của chồng mới sáu tuổi là cháu Bàn Văn Thắng, rồi phi tang  xác tại vườn mía sau nhà. Gần nhất, vào chiều ngày 25/11/2019, Đắk Nông, chị Lâu Thị S, 18 tuổi bị chồng là Lâu A Chớ cùng tuổi đã dùng dao đâm nhiều nhát khiến nạn nhân tử vong tại chỗ, sau đó dìm xác xuống hố để phi tang.
Thực vậy, hiện trạng tội ác gia đình trên đất nước hôm nay không thể được coi như chuyện vợ chồng hục hặc lời qua tiếng lại, rồi đưa đến giằng co, đấm đá, và hồ sơ bạo lực gia đình ấy được đơn giản xếp vào hộc tủ của cơ quan hữu trách và mãi mãi không được lôi ra giải quyết, nhưng vì là tội ác với mức độ cực kỳ  tàn ác, khi lấy đi mạng sống của người khác ; vì là tội với hành vi gian ác, khi ra tay sát thủ để thực hiện cho bằng được thủ đọan, kế hoạch phi nhân ; vì là tội mang dấu ấn độc ác, mất hẳn tính nhân văn, nhân đạo, nên tội ác gia đình phải được mọi người, mọi gia đình và cộng đồng xã hội cùng suy nghĩ, bàn bạc, tìm ra nguyuên nhân và giải pháp đối phó hữu hiệu.
Cùng với qúy bạn, những người không ngừng thao thức và tha thiết với con người, gia đình, quê hương, đất nước, cũng như tương lai của giống nòi, người viết mạo muội xin được chia sẻ chút tâm tư :
1.   Không lẽ  chúng ta đang mất Gia Đình như Mái Ấm hạnh phúc, Bến Đỗ  bình an ?
Vẫn biết cuộc sống không tránh khỏi bạo lực và hậu qủa tang thương của nó, cũng như tội ác là sự thật không thể chối cãi trong thế giới loài người, nhưng bạo lực nghiễm nhiên ngự trị trong gia đình, và tội ác nghênh ngang, trân tráo thống trị, tác yêu tác quái ngay giữa lòng Mái Ấm hạnh phúc là gia đình thì qủa là điều khó tin, không thể chấp nhận, bởi bản chất của Gia Đình là Tổ  Ấm Yêu Thương, căn tính của Gia Đình là  Nôi Hạnh Phúc, đặc tính của Gia đình là Đường Về Hy Vọng, sứ mệnh của Gia Đình là Bến Đỗ Bình An cho mọi thành viên, thuộc về Gia Đình.
Vì thế, khi Gia Đình bị bạo lực, tội ác len lỏi vào phá hoại thì Gia Đình không còn là nơi  có tình mẹ cha ấm êm, có huyết thống anh em đậm đà, có niềm vui hiến dâng, có hạnh phúc lãnh nhận, có nước mắt cảm thông, có môi cười khuyến khích, có bước chân đồng hành, có bàn tay bảo vệ, nâng đỡ, nhưng bạo lực làm tan nát tất cả và tội ác tiêu diệt  sự thật, sự sống, tình yêu của gia đình.
Khi phá hoại sự thật của gia đình, bạo lực và tội ác làm nẩy mầm dối trá, nghi ngờ  giữa các thành viên; để tiêu diệt tình yêu gia đình, bạo lực và tội ác phát động phong trào ganh ghét, ghen tương, đố kỵ giữa cha mẹ, con cái, anh chị em ; nhằm đốn chặt sự sống gia đình, bạo lực, tội ác nhiệt liệt ủng hộ chiến dịch mạnh được yếu thua, giải quyết tất cả bằng đồng tiền và bạo lực, vì tiền thì vạn năng, và bạo lực là sức mạnh không gì có thể chống cưỡng.
Và hậu qủa là niềm tin không còn chỗ trong gia đình, khi người nhà không còn tin nhau, cha mẹ, con cái, anh chị em không còn dám nói thật với nhau, và sinh hoạt gia đình biến thành  canh bạc dối trá, lừa lọc ; hậu qủa là trong nhà không ai quan tâm đến hạnh phúc của ai, vì tình thân phai nhạt do tranh giành ảnh hưởng, mâu thuẫn vật chất ; hậu qủa là tình gia đình không còn là chất keo gắn bó mọi thành viên, không còn niềm tự hào giọt máu đào hơn ao nước lã, hay niềm an ủi anh em như thể tay chân, và không còn được nghe lời ru ngọt ngào tình nghiã : Bầu ơi thương lấy bí cùng hay Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.
Vâng, nếu gia đình hôm nay trên đất nước này không còn là tổ ấm yêu thương cho những người con đang cần tình yêu để khôn lớn, vào đời ; nếu gia đình không còn là mái ấm hạnh phúc cho những con người bất hạnh vì thiếu may mắn trên đường đời nhiều chông gai, thử thách ; nếu gia đình không còn là đường về hy vọng cho những đứa con lỡ bước, lầm đường ; nếu gia đình không còn là bến đỗ bình an cho những đứa con sa cơ thất thế, lao đao, lận đận, bị đời xử tệ, bị người bạc đãi, bị xã hội truy lùng ; và nếu gia đình không còn là gia đình như phải là, ở đó cha mẹ yêu thương con cái, con cái thảo hiếu cha mẹ, tổ tiên, ông bà được tôn kính, họ hàng, láng diềng, bạn hữu được nể nang, qúy trọng thì không lạ gì khi  nghe kể cảnh hãi hùng cha đem hai con nhỏ ra biển nhận chìm, rồi giấu xác ; nghe tội ác vợ đồ xăng đốt sống chồng trong đêm ; nghe chuyện khủng khiếp  con dâu dùng giây xiết cổ mẹ chồng ; nghe cháu hãm hại bà nội bằng độc chất liều lượng cao.
Và nếu đúng như vậy, đúng là sự thật như báo chí, truyền thông lề phải, lề trái hằng ngày dồn dập đăng tải, thì chúng ta phải lương thiện nhận rằng : gia đình trên quê hương chúng ta đang bước vào thời kỳ khủng hoảng rất nghiêm trọng đe dọa sự tồn vong của gia đình truyền thống.
2.   Đâu là nguyên nhân đưa đến tội ác trong gia đình ? 
a.   Bầu Khí Bạo Lực :
Tục ngữ Việt Nam có câu : Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài hay Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng để diễn tả ảnh hưởng của môi trường sống, ảnh hưởng của không gian tiếp cận, ảnh hưởng của những người chúng ta giao lưu, sinh hoạt. Cũng vậy, khi phải sống trong bầu khí của dối trá, bon chen, tranh giành, đấu đá, hay  bê tha, đồi trụy, chúng ta khó có thể giữ tâm hồn lương thiện, bác ái, trong sạch. Bị đặt vào hoàn cảnh sống với những người coi bạo lực là sức mạnh để áp đảo, chiến thắng, chọn  bạo lực làm phương án, lấy bạo lực làm phương tiện giải quyết mọi việc, vì xác tín bạo lực có sức lèo lái o ép đối tác, có  uy lực làm sợ hãi đối phương, có khả năng đánh gục, tiêu diệt đối thủ, chúng ta sẽ dần dà bị ô nhiễm lối tư duy, lý giải  gian ác ; học đòi thói ăn nói dữ dằn, hung bạo ; quen thuộc thói cư xử côn đồ, bợm trợn, và hành xử không ngượng ngùng như những người vô cảm, tàn nhẫn.
Nhìn vào gia đình, học đường, sở làm, đường phố, và sinh hoạt xã hội nói chung, chúng ta thấy gì ?
Chúng ta thấy ngày càng nhiều những cảnh bạo lực gia đình như vợ chồng đánh cãi nhau, con cái bị cha mẹ hành hạ, lạm dụng tình dục, hoặc đem bán ; chúng ta đau lòng nhìn cảnh thầy giáo vô lương tâm hà hiếp học trò, học trò ngược ngaọ, côn đồ chặn đường đe dọa, hành hung thầy cô ; chúng ta chán ngán trước cảnh đồng nghiệp đạp nhau mà lên, bôi nhọ, vu khống, giăng bẫy nhau để tiến thân ; ngoài đường phố, chúng ta ngay ngáy sợ bị chém oan, nơm nớp lo bị giật bóp, và trong sinh hoạt xã hội, chúng ta không biết tai hoạ đổ xuống lúc nào, tai ương ập đến khi nao, bởi gươm giáo khắp nơi, bạo lực rình rập ngay đầu ngõ. Đó là chưa kể phim ảnh bạo lực, thông tin bạo lực nhan nhản hằng ngày, hằng  đêm tràn ngập ám ảnh không chỉ tâm trí  non nớt, ngây thơ của tuổi thơ, tuổi trẻ, mà cả tuổi thành niên, người lớn. Tất cả đã đưa bạo lực lên đài vinh quang, tạo cho bạo lực một thế đứng bất khả xâm phạm, và tôn vinh bạo lực như phương tiện giải quyết mau chóng, ráo ruốt, hữu hiệu mọi vấn đề. Cũng chính vì tính hữu hiệu của bạo lực, mà người ta không còn quan tâm tìm kiếm những cách giải quyết không bạo lực, nhưng hoà bình, nhân bản khác như đối thoại, hoà giải, thương lượng, nhịn nhường.  
Tóm lại, bầu khí bạo lực không là môi trường tốt giúp phát sinh ý nghĩ  hiền lành, ngôn từ đằm thắm, hành vi thân thiện. Bầu khí bạo lực ấy cũng không là thửa đất tốt  cho hạt giống nhân hậu nẩy mầm, cây nhân ái tươi xanh, hoa nhân đạo kết trái, nhưng giết chết từng ngày tình thân, tình nghiã, tình người. Và điều đáng buồn, đáng tiếc là bầu khí bạo lực độc hại ấy đang bao phủ, đè nặng trên quê hương, đất nước chúng ta, và là nỗi ưu tư hàng đầu của những con người còn yêu mến, và muốn giữ gìn  căn tính gia đình .            
b.   Chủ nghiã  thực dụng và mãnh lực của đồng tiền :
Chủ nghĩa thực dụng đưa con người đến một nguyên tắc rất ngắn, gọn, nhưng vô cùng tàn phá, đó là : cái gì có lợi thì làm, người nào có lợi thì chơi, ở đâu có lợi thì đến. Lợi là lợi cho cái tôi, chứ không lợi cho người khác, cho xã hội, nên người thực dụng không có gì trong đầu ngoài cái tôi trục lợi, không lẽ sống nào ngoài ham lợi, không động lực nào ngoài thủ lợi, nên khi không có lợi  thì loại bỏ ngay. Họ loại bỏ  dễ dàng những người không đem lợi cho họ, ngay cả cha mẹ, vợ con, anh chị em, bạn hữu ; họ lọai bỏ không tiếc thương  những gì không có lợi, hay vừa hết lợi, kể cả lý tưởng, chính nghiã, gia đình, dân tộc, tôn giáo ; họ ngang nhiên loại bỏ cả những ai đã đóng góp xây dựng làm nên đời họ, nếu không còn sinh lợi cho họ.
Do đó, trong chủ nghiã thực dụng, những giá trị nhân văn, đạo đức, luân lý, tâm linh đều bị coi thường, bỏ quên, và được thay thế bằng một thứ giá trị mới, đó là vật chất, vì mục tiêu của chủ nghiã thực dụng không gì khác hơn là vật chất. Cứu cánh cuộc đời của người thực dụng từ nay là đồng tiền, nên sẽ không khó hiểu, khi không có một đối tượng nhân loại nào, dù là đồng môn, đồng song, đồng lân, đồng hương, đồng bào, đồng chí, đồng loại  lớn hơn đồng tiền, qúy hơn đồng tiền, vượt xa đồng tiền, vì hơn các thứ đồng vừa kể, đồng tiền có mãnh lực chiến thắng, có ma lực hớp hồn, có uy lực không chế, có quyền lực trấn áp, đè bẹp. Chẳng thế mà trong đời thường, nhân gian vẫn  kháo láo với nhau như một chân lý : khách hàng là thượng đế để suy tôn người có tiền lên hàng thần tượng, cũng như cái gì không giải quyết được bằng tiền, thì bằng rất nhiều tiền để diễn tả sức mạnh vô song, bách chiến bách thắng của đồng tiền vạn năng.  
Một xã hội chỉ có tiền là giá trị, sức mạnh, và lẽ sống, thì bạo lực có  rất nhiều cơ may hoành hành, thống lãnh, bởi bạo lực được lợi dụng để  kiếm tiền, được sử dụng để giữ tiền, được trọng dụng để làm tiền ; bởi tiền và bạo lực là mặt trái, mặt phải của bàn tay thực dụng. Cả hai  rất xứng đôi vừa lứa, dựa dẫm nhau đi lên trong sinh hoạt của thế giới thực dụng .
Nhìn lại thảm cảnh tội ác gia đình, chúng ta thấy hầu hết đều chung một nguyên nhân vật chất, đó là mâu thuẫn tiền bạc, tranh chấp của cải, đất đai. Ở Đan Phượng, anh Nguyễn Văn Đông đã chém chết em trai và nhiều người chỉ vì nửa thước đất ; anh Bùi Xuân Hồng thảm sát em gái cũng vì món nợ ba tỷ ; cả hai vụ thảm sát do Lưu Văn Nghiã giết cha mẹ vợ và La Thị Thức giết con riêng của chồng cũng có nguyên nhân xa từ chuyện tiền bạc.
Thực vậy, khi tiền bạc, của cải trở thành giá trị duy nhất trong xã hội  thực dụng thì bạo lực có chỗ đứng quan trọng và nắm giữ vai trò quyết định, bởi vì thực dụng, nên khi có mâu thuẫn, va chạm, đụng độ trong cuộc sống, người ta không biết dùng đến phương tiện nào khác, không quen tìm đến giải pháp nào khác ngoài bạo lực, chỉ vì không còn ý thức và khả năng quy chiếu vào những giá trị đạo đức, nhân văn cao đẹp khác.       
c.     Vắng bóng  giá trị tâm linh :
Giá trị tâm linh rất quan trọng, vì giá trị này tạo quân bình cho đời sống. Không niềm tin vào Đấng Thiêng Liêng có quyền trên sự sống, sự chết của con người ; có quyền thưởng phạt những hành vi tốt xấu, thiện ác, lành dữ của từng cá nhân, người ta sẽ bất chấp tội ác, và tự cho mình quyền làm tất cả những gì mình muốn, dù đó là những việc làm vi phạm luật tự nhiên, luật luân lý, luật dân sự. Tội ác sẽ trở thành chuyện bình thường, và người ta thực hiện tội ác mà không gớm tay, rùng mình, vì không tin vào  Đấng thiêng liêng, khi cho rằng : đời người sẽ kết thúc ở hư vô : người tốt, kẻ xấu, người sống ngay lành, lương thiện, hay tội đồ, ác nhân, tất cả đều trở về hư vô, cát bụi , nên sẽ chẳng có công phúc, thưởng phạt, hay sướng khổ gì, bởi hoá thân hư vô thì làm gì  còn trách nhiệm trả lời về việc làm của mình ; bởi con người thuần vật chất, thì làm gì có thế giới đời sau, có linh hồn bất tử để chịu phạt vì đã làm tội ác.
Chủ trương con người không linh hồn, không bất tử, không đời sau, không nhân qủa, không thưởng phạt rất dễ đưa con người đến hành vi tội ác. Đó là kết qủa quyết của các nhà tâm lý và tội phạm học.    
3.   Chúng ta phải làm gì để ngăn chặn tội ác xâm nhập phá hoại gia đình ?

a.   Chúng ta làm gương sáng:
Nhân chi sơ, tính bản thiện, nhưng tính bản thiện sẽ phôi pha, mờ nhạt, nhường chỗ cho gian ác, bạo lực, nếu tính bản thiện không được phát huy nhờ gương sáng. Gương sáng nhân hậu, từ tâm, hiền lành, bao dung, quảng đại, vui tươi của cha mẹ xây dựng tâm hồn hiền hoà, uốn nắn trái tim nhân ái của con cái ; gương sáng nhẫn nhục, không ghen tương, không nóng giận, không vênh vang, tự đắc, không nghênh ngang côn đồ,  không thô tục chửi rủa, nhưng thái độ dĩ hoà vi qúy, yêu chuộng hoà bình, cởi mở đối thoại, thân thiện, hoà nhã của người lớn trong gia đình sẽ tạo nên nếp nghĩ, nguyên tắc phân định, và tiêu chuẩn chọn lựa  đầy tính nhân văn, đạo đức nơi các em nhỏ trong nhà.
Gương sáng luôn đánh động, vì gương sáng sống động và tác động mạnh mẽ trên nhân cách người thấy gương sáng. Một gia đình có cha mẹ biết làm gương sáng sẽ có đàn con ngoan ngoãn, đạo hạnh. Trái lại, thiếu gương sáng trong gia đình, mọi nết xấu sẽ thi nhau đổ vào biến gia đình thành hang ổ của tội ác.
b.   Chúng ta giáo dục tâm hồn con em:
Tuổi thơ như  búp măng non, nếu không uốn nắn, sẽ thành tre cứng cỏi, ngang ngược. Giáo dục rất cần thiết, vì con người cần được giáo dục, nếu không sẽ không thành nhân, nhưng thành bất nhân ; không thành người thiện tâm, nhưng thành người ác tâm ; không thành người xây dựng, nhưng thành người phá hoại gia đình, xã hội ; không thành người mang lại hạnh phúc, nhưng thành kẻ gieo tai hoạ cho mình và người khác.
Giáo dục tâm hồn hệ tại  gieo vãi hạt giống yêu thương, tôn trọng, biết ơn người khác, nhất là những người có công sinh thành, nuôi dưỡng, làm nên cuộc đời mình ; là vun trồng lòng trân qúy sự sống của mình và của người khác, và bằng mọi giá bảo vệ và phát huy sự sống ấy ; là xây dựng một lương tâm trong sáng, không gian dối, nhưng tôn trọng sự thật ; là làm chan hoà niềm vui sống, tinh thần lạc quan ; là đào tạo trái tim biết yêu thiên nhiên, thương thú vật, bảo vệ môi sinh. Được như thế, con người sẽ quân bình với nếp sống có trách nhiệm và nhân ái. Nhờ đó, tội ác sẽ không có cửa lọt vào gia đình, và thảm cảnh cha mẹ giết con, anh em chém nhau, con rể đâm chết bố mẹ vợ sẽ không còn làm tan nát cõi lòng người thân, phá nát mái ấm yêu thương, và thiêu rụi nhiều thế hệ tương lai của gia đình.  
Hy vọng tâm tư trên của người viết đã được bạn ít nhiều chia sẻ. Xin được cùng Bạn ước mong và nguyện cầu cho tất cả các gia đình Việt Nam chúng ta được bình an giữa cuộc sống nhiều thách đố cam go.
Jorathe Nắng Tím  

Thứ Ba, 26 tháng 11, 2019

HẠNH PHÚC CỦA NHÀ TRUYỀN GIÁO

Suy Niệm TIN MỪNG Lễ Kính Thánh Phanxicô Xaviê
Khi nói Hạnh Phúc của nhà truyền giáo, người viết không chỉ chiêm ngưỡng nhà truyền giáo hạnh phúc trên đường rao giảng Tin Mừng, mà còn mong thấy những người được truyền giáo cũng hạnh phúc như các vị. Và như thế mới đúng ý nghiã của hạnh phúc, khi kẻ cho người nhận, cả hai cùng hạnh phúc !
Vì Lời Chúa là Tin Vui, sứ điệp của Chúa là Tin Mừng (x.Mt 4,23), Hiến Chương Nước Chúa là Hạnh Phúc (x.Mt 5,3-12), kinh nguyện Chúa dạy là niềm Ủi An (x. Mt 6,9-13), Lời Hứa của Chúa là Hy Vọng (x. Lc 1,54-55), Lương thực Chúa ban là Bánh Hằng Sống (x. Ga 6, 26-71), nên khó có thể quan niệm một nhà truyền giáo không hạnh phúc, vì những điều vị ấy loan truyền cho người khác đều là những giá trị tuyệt vời, mang lại kết qủa tuyệt vời. Cũng vậy, người nhận những giá trị này không thể là người bất hạnh, vì có gì tiêu cực trong sứ điệp được loan báo đâu ? Hơn thế nữa, khi đi vào cốt lõi, truyền giáo chính là loan truyền Đức Giêsu, Đấng là Thiên Chúa làm người. Ngài là Đường, Sự Thật và Sự Sống cho nhân loại không còn phải đi trong đêm tối của lầm lạc, và được sống đời đời. Ngài là Hạnh Phúc được loan báo và Hạnh Phúc được đón nhận, vì Ngài đến để ban Bình An của Ngài, Bình An mà thế gian không ban được, và hạnh phúc lớn nhất của con người, đời người, chính là được Bình An.
Nhưng trong thực tế, tình trạng nhà truyền giáo và người được truyền giáo không hạnh phúc cũng không phải là những trường hợp họa hiếm, khó tìm. Vậy đâu là nguyên nhân đưa đến tình trạng đáng buồn, ngược với Tin Mừng này ?
Chúng ta cùng tìm câu trả lời cho vấn nạn này, bằng cách nhìn vào những người được Thiên Chúa gọi, và sai đi trong Kinh Thánh.
Trước hết là Ápraham, cha của những kẻ tin, khi Thiên Chúa gọi ông Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi mà đi đến đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi (St 12,1) và dòng dõi ngươi sẽ đông như sao trên trời, như cát dưới biển (x. St 15,5-6.10). Nhưng Lời Hứa làm tổ phụ của Ápraham lập tức bị đe dọa bởi giới hạn không thể vượt qua bằng sức người có hạn, đó là hai vợ chồng ông đã già, không còn có thể sinh con, ông  đã một trăm tuổi, bà thì vừa tròn chín mươi (x. St 7,17).
Ápraham và Xara, vợ ông đều nhận ra giới hạn tuổi tác của mình trước Lời Hứa của Thiên Chúa, nên ông đã cúi đầu tủm tỉm cười (St 17,17). Riêng Xara thì sơ ý bật cười trước mặt sứ thần của Thiên Chúa giả làm khách đi đường, khi ngài bảo Ápraham : Sang năm, tôi sẽ trở lại thăm ông, và khi đó, bà Xara, vợ ông sẽ có một con trai (St 18,10). Vâng, chính khi Xara nhận Mình đã cằn cỗi  … và  ông nhà mình lại là một ông lão ! (St 18,11), là lúc Thiên Chúa cho ông bà nhận ra quyền năng vô hạn của Ngài : Nào có điều gì kỳ diệu vượt sức Đức Chúa đâu ? (St 18,14).
Khi gọi và giao phó sứ mệnh giải phóng Ítraen khỏi tay Pharaô, và dẫn dân ra khỏi Ai Cập (x. Xh 3,7-10), Môsê đã nhận ra giới hạn của mình và thưa với Thiên Chúa : Con là ai mà dám đến với Pharaô và đưa con cái Ítraen ra khỏi Ai Cập ? (Xh 3,11). Môsê không chỉ nhận ra giới hạn về nhân thân, gia thế không có gì đáng nói của mình, mà còn biết mình không có khả năng ăn nói, nếu không muốn nói là ăn nói khó khăn, cà lăm, ngọng nghịu (x. Xh 4,10). Và Môsê đã nhận ra quyền năng của Thiên Chúa qua Lời Ngài : Ai cho con người có mồm có miệng ? Ai làm cho nó phải câm phải điếc, cho mắt nó sáng hay phải mù loà ? Há chẳng phải là Ta, Đức Chúa đó sao ? Vậy bây giờ ngươi hãy đi, chính Ta sẽ ngự nơi miệng ngươi, và Ta sẽ cchỉ cho ngươi phải nói những gì (Xh 4,11-12), khi ông biết mình còn nhiều giới hạn.    
Một nhân vật nổi bật của Tân Ước và gần gũi chúng ta là Phaolô, nhà truyền giáo nổi tiếng, vị tông đồ dân ngoại. Ngài đã chia sẻ sống động tâm tình của một nhà truyền giáo và những kinh nghiệm truyền giáo rất qúy báu của ngài. Những tâm tình và kinh nghiệm ấy xoay quanh ơn gọi được sai đi từ Thiên Chúa toàn năng và thân phận yếu đuối, mỏng dòn, với khả năng  giới hạn của người được sai đi loan báo Tin Mừng .
Ngay trong Công Vụ các Tông Đồ, Phaolô đã tự thú hành vi bắt đạo rất bất xứng của mình trước những người Do Thái ở Giêrusalem : Tôi đã bắt bớ Đạo này, không ngần ngại giết kẻ theo Đạo, đã đóng xiềng và tống ngục cả đàn ông lẫn đàn bà, như cả vị thượng tế lẫn toàn thể hội đồng kỳ mục có thể làm chứng cho tôi. Tôi còn được các vị ấy cho thư giới thiệu với anh em ở Đamát, và tôi đi để bắt trói những người ở đó, giải về Giêrusalem trừng trị (Cv 22,4-5).
Trong thư gửi giáo đoàn Rôma, Phaolô tự nhận mình không ngừng phải chiến đấu với chính mình vì tội lỗi trong mình : Vẫn biết rằng Lề Luật là bởi Thần Khí, nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt, bị bán làm tôi cho tội lỗi. Thật vậy, làm gì tôi cũng chẳng hiểu : vì điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm… Vậy thật ra không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi. Tôi biết rằng sự thiện không ở trong tôi, nghiã là trong xác thịt tôi. Sự thiện tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải chính tôi làm điều đó, nhưng là tội lỗi vẫn ở trong tô (Rm 7,14-20).
Nhưng chính khi nhận mình là người bất xứng với ơn gọi tông đồ, vì tay đã nhuốm máu người có Đạo, và bản thân nhiều tội, nhà truyền giáo Phaolô đã nhận ra :
a.   Thiên Chúa đã không cần đến sự tài giỏi, khôn ngoan, khéo léo của thế gian, nghiã là không cần đến khả năng của người được sai đi theo tiêu chuẩn định giá của con người, cho bằng cần người được sai đi nhận ra giới hạn của mình, và vô hạn của Thiên Chúa.
Trong thư gửi giáo đoàn Côrinthô, thánh nhân viết : Qủa thực, Đức Kitô đã chẳng sai tôi đi làm phép rửa, nhưng sai tôi đi rao giảng Tin Mừng, và rao giảng không phải bằng lời lẽ khôn khéo, để thập giá Đức Kitô khỏi trở nên vô hiệu. Thật thế, lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa (1 Cr 1,17-18).
Và ngài mời gọi mọi người cùng ngài nhận ra tiêu chuẩn chọn cộng sự viên truyền giáo của Thiên Chúa : Thưa anh em, anh em thử nghĩ lại xem : khi anh em được Chúa kêu gọi, thì trong anh em, đâu có mấy kẻ khôn ngoan trước mặt người đời, đâu có mấy người quyền thế, mấy người qúy phái. Song những gì thế gian cho là điên dại thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh ; những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để hủy diệt những gì hiện có, hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Người (1 Cr 1,26-29).        
b.  Thiên Chúa là sức mạnh của nhà truyền giáo.
Nhà truyền giáo làm công việc của Thiên Chúa, khi được sai đi loan báo Tin Mừng cho nhân loại, nên người bảo đảm cho việc loan báo Tin Mừng chính là Thiên Chúa, chứ không là nhà truyền giáo. Vì thế, thiếu ý thức mình chỉ là dụng cụ bé nhỏ, khí cụ thô sơ, đầy tớ vô ích chỉ biết làm việc ông chủ sai, thực hiện ý ông chủ muốn, thì việc truyền giáo không mang lại kết qủa như Thiên Chúa mong muốn, bởi điều quan trọng nhất trong truyền giáo, chính là Thiên Chúa được đón nhận, vinh danh, và yêu mến, chứ không phải bản thân nhà truyền giáo, như phương châm truyền giáo của thánh Gioan Tiền Hô : Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi (Ga 3,30). Thế nên, trong mọi việc, mọi hoàn cảnh, nhà truyền giáo tìm sức mạnh ở một mình Thiên Chúa, mà không quy chiếu vào mình, cũng không dựa vào một thế lực nào khác.
Ở bất cứ thời nào đều không thiếu những nhà truyền giáo, vì muốn công việc truyền giáo sớm thành công, dự án truyền giáo chóng được thực hiện đã tìm những giải pháp không xứng hợp với đòi hỏi của Tin Mừng, có khi còn ngược lại Tin Mừng. Điều này không những không đem lại hoa trái thiêng liêng đích thực, mà còn là dịp tội lôi kéo nhà truyền giáo kiêu căng, tự mãn, khi khẳng định mình qua những thành công  bên ngoài, điều mà Xatan rất mong muốn. Trái lại, Thiên Chúa yêu thích tâm hồn đơn sơ, phó thác của nhà truyền giáo biết mình yếu đuối, nhiều giới hạn, để chỉ biết trông cậy vào sức mạnh của Thiên Chúa, như nhà truyền giáo Phaolô đã chia sẻ : Người qủa quyết với tôi : Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối. Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh (2 Cr 12,9-10).
Vâng, trên đường truyền giáo, cơn cám dỗ lớn nhất chính là phải làm được việc, nhưng không phải lúc nào cũng được làm việc, để làm được việc. Vì thế, nếu chỉ nghĩ mình khôn ngoan, tài giỏi, có khả năng, mà quên sự khôn ngoan của Thiên Chúa khác xa sự khôn ngoan của người đời ; quên sự yếu đuối của mình  là sức mạnh của Thiên Chúa, quên giới hạn của mình là vô hạn của Đấng sai đi, chúng ta sẽ khó tránh khỏi bất mãn, nản lòng  khi phải chứng kiến bề ngoài thất bại của công việc truyền giáo, bề ngoài bế tắc, đổ vỡ của công cuộc truyền giáo, bề ngoài tan hoang, đổ nát của công trình truyền giáo, và như thế, chúng ta sẽ là những nhà truyền giáo thất vọng với Tin Mừng Hy Vọng, những thừa sai bất hạnh trong sứ vụ loan báo Nước Trời Hạnh Phúc, những người được sai đi sầu buồn, nghi nan trên đường gieo rắc Niềm Vui và  Bình An của Thiên Chúa.
Không chân nhận giới hạn của mình, nhất là khi được gọi vào vai trò trọng yếu của phẩm trật, hoặc được trao trách nhiệm lớn, ngồi ghế cao, khó thay thế, nhà truyền giáo sẽ dễ quên mình chỉ là khí cụ có giới hạn, đầy tớ có thể thay thế, con người bất toàn, mà hậu qủa sẽ là thái độ kiêu căng, loại trừ đối thủ, đối phương ; thái độ cục bộ, khép kín để xây dựng pháo đài, mạng lưới phe cánh, và thái độ độc đoán, độc tài, ra sức củng cố quyền lực. Cơn cám dỗ này thường được  khéo léo ngụy trang dưới nhiều chiêu bài nghe rất êm tai, nhìn rất tốt đẹp, nhưng thực chất chỉ là công trình xây dựng thanh thế cá nhân của nhà truyền giáo, mà quên hẳn việc loan báo, làm chứng Đức Kitô chịu đóng đinh. Và một trong những dấu chỉ của nhà truyền giáo thoái hoá, chính là độc quyền truyền giáo.
Thánh Phaolô, nhà truyền giáo dầy kinh nghiệm đã cảnh báo cám dỗ độc quyền truyền giáo và gương xấu ganh ghét, cạnh tranh trong  truyền giáo giữa những nhà truyền giáo tự cho mình là toàn năng, vô hạn khi nhấn mạnh quyền thánh hoá, đổi mới các tâm hồn là quyền của Thiên Chúa, vì ngoài Thiên Chúa, không ai có thể đổi mới, thánh hoá ai, vì tất cả chỉ là dụng cụ bất toàn, ngay cả các tông đồ tuy được thánh hiến cũng chỉ là những cộng sự viên, những khí cụ, những đầy tớ vô dụng, chỉ biết chu toàn công việc được  ông chủ là Thiên Chúa trao phó.
Như hồi chuông cảnh tỉnh, thánh nhân đã viết cho giáo đoàn Côrinthô : Bao lâu giữa anh em có sự ghen tương, cãi cọ, thì anh em chẳng phải là những con người sống theo tính xác thịt và theo thói người phàm sao ? Khi người này nói : Tôi, tôi thuộc về ông Phaolô, và người khác : Tôi, tôi thuộc về ông Apôlô, thì anh em chẳng phải là người phàm tục sao ? Vậy Apôlô là gì ? Phaolô là gì ? Đó là những tôi tớ đã giúp cho anh em có đức tin, mỗi người đã làm theo khả năng Chúa ban. Tôi trồng, anh Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên. Vì thế, kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Đấng làm cho lớn lên, mới đáng kể…. Theo ơn Thiên Chúa đã ban cho tôi, tôi đặt nền móng như một kiến trúc sư lành nghề, còn người khác thì xây trên nền móng đó. Nhưng ai nấy phải coi chừng về cách mình xây cất. Vì không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giêsu Kitô (1 Cr 3, 3-11).
Thực vậy, nhà truyền giáo chỉ hạnh phúc trên đường truyền giáo khi đặt tất cả thao thức, ước mơ, dự án, kế họach và công trình truyền giáo của mình trên nền tảng đã được đặt sẵn là Đức Giêsu Kitô, nghiã là mọi hy vọng, việc làm, thành qủa truyền giáo đều quy chiếu và thuộc về một mình Ngài, để tâm hồn nhà truyền giáo luôn an bình, hồn nhiên, phó thác, vì biết mình có giới hạn, cho dù được thánh hiến, sai đi ; để cuộc sống nhà truyền giáo luôn rạng ngời, hạnh phúc vì biết yếu đuối của tôi là sức mạnh của Thiên Chúa. Và một khi nhà truyền giáo hạnh phúc trong Chúa, thì người được nghe loan báo Tin Mừng cũng được tràn đầy Bình An, vì họ được đích thân gặp Đức Giêsu qua nhà truyền giáo khiêm nhường biết nhỏ đi để Thiên Chúa lớn lên ; được nghe tỏ tường Lời Đức Giêsu, nhờ nhà truyền giáo biết nhỏ nhẹ, khoan thai, mà không tự đắc oang oang lấn át Lời Hằng Sống ; được lại gần bên Đức Giêsu giầu lòng thương xót, nhân hậu, nhờ nhà truyền giáo biết chạnh lòng, cảm thương mà không gay gắt xua đuổi.
Mừng lễ thánh Phanxicô Xaviê, nhà truyền giáo nhiệt thành của thế kỷ XVI với những bước chân thừa sai làm rực rỡ vườn hoa Giáo Hội Châu Á. Với tinh thần khiêm tốn luôn biết mình chỉ là khí cụ có giới hạn trong tay Thiên Chúa toàn năng vô hạn, và niềm xác tín : Sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối của con (x. 2 Cr 12,9), thánh nhân đã sống một đời truyền giáo Hạnh Phúc, và đem Hạnh Phúc của Tin Mừng Cứu Độ cho hết mọi người trên muôn nẻo đường truyền giáo của ngài để loan báo Đức Giêsu chịu đóng đinh.
Đây cũng là dịp chúng ta cầu nguyện cho các nhà truyền giáo. Xin cho các vị tinh thần khiêm tốn biết mình là khí cụ có giới hạn và luôn dựa vào Thiên Chúa là sức mạnh trong yếu đuối của mình, để không kiêu căng, tự đắc khi thành công, cũng không nản chí, thất vọng khi gặp khó khăn, thất bại trên đường truyền giáo luôn có Đức Giêsu đồng hành.
Jorathe Nắng Tím