Suy Niệm TIN MỪNG CHÚA NHẬT IV, MÙA VỌNG, Năm A
Lời
Hứa luôn đi với Hy Vọng, bởi khi hứa với ai điều gì, ta dự phóng thực hiện Lời
Hứa ấy trong tương lai, nên phải có niềm hy vọng thực hiện Lời Hứa ; cũng
như người được hứa luôn mong mỏi, đợi chờ Lời Hứa với niềm hy vọng Lời Hứa sẽ
được trọn vẹn và tốt đẹp thực hiện.
Vì
thế khi hứa mà không hy vọng thực hiện được lời hứa, người ta trở thành người hứa
hão, hứa lèo, hứa xạo, hứa tào lao, hứa ba láp, tàm xàm, hứa cho sướng miệng, hứa
cho yên chuyện, hứa cho người ta vui, hứa để lừa đảo, hứa để lợi dụng, nên hứa
mà không biết mình hứa gì, hứa mà không hy vọng thực hiện được lời hứa, người
ta không chỉ coi thường giá trị của lời hứa, mà còn tự hạ thấp giá trị giá trị
của chính mình, khi biến mình thành người không đáng tin, kẻ lừa dối.
Qủa
thực, người hứa mà không làm, hứa mà không giữ lời hứa, hay hứa một điều, một
việc vượt qúa khả năng, nói tắt, hứa mà không hy vọng, hứa mà trong tay không mảy
may khả thể đạt hiệu qủa lời hứa thì đều gây thiệt hại cho người được hứa, khi
làm họ vỡ mộng, hụt hẫng, chao đảo, thất bại, có khi mất hết cả danh dự, gia
đình, sự nghiệp, tương lai vì đặt hết niềm tin, hy vọng vào những lời hứa không
bao giờ được thực hiện.
Cuộc
đời đã đặt chúng ta không nhiều thì ít trước những đau khổ khi bị người khác
cho “leo cây”, lật kèo : họ hứa mà
không làm, hứa mà không giữ, kể cả “thề non hẹn biển”
mà cũng “cao bay xa chạy”, “quất ngựa truy phong” bỏ quên lời thề, xóa sạch lời hứa. Và có thể
chính chúng ta cũng đã đặt người khác vào tình huống bẽ bàng, “cười ra nước mắt”, “nuốt lệ vào trong” khi làm họ thất vọng, bởi hứa mà không làm, hoặc
“vội hứa, mau quên”, nhất là khi chúng ta là kẻ
có chức quyền dễ bị cám dỗ coi thường và
không trọng lời hứa đối với người thuộc cấp, và những ai thua kém mình.
Tin
Mừng Chúa Nhật thứ tư Mùa Vọng đưa chúng ta vào bầu khí hy vọng của Lời Hứa,
không phải lời hứa nửa đáng tin nửa đáng ngờ của con người hứa với nhau, nhưng
là Lời Hứa trăm phần trăm chắc chắn, vì là Lời Hứa tràn đầy hy vọng của chính
Thiên Chúa.
Kinh
Thánh đã cho thấy Lời Hứa cứu độ tràn đầy hy vọng của Thiên Chúa đã được hứa với
ông bà nguyên tổ ngay sau khi ông bà phạm tội, khi Thiên Chúa tuyên phạt Rắn độc
Satan : “Ta sẽ gây mối
thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy ;
dòng giống ấy sẽ đạp giập đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót chân nó” (St 3,15). Và dọc lịch sử dân
riêng của Thiên Chúa, các ngôn sứ, trong đó có ngôn sứ Isaia đã nói với nhà
Đavít về người đàn bà này : “Vì
vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu : Này đây người thiếu
nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuel” (Is 7,14).
Tin
Mừng Luca đặt chúng ta trong bối cảnh của những ngày Lời Hứa sắp được thực hiện
trong lịch sử cứu độ, một bối cảnh hết sức đặc biệt làm nổi bật niềm hy vọng của
những con người tuyệt đối tin tưởng vào Lời Hứa.
Trước
nghịch lý vợ mình có thai “trước
khi hai ông bà về chung sống”
(Lc 1,18), thánh Giuse đã phải gồng mình vượt qua thử thách, để niềm hy vọng
vào Lời Hứa của Thiên Chúa đến cứu dân Ngài không bị lay chuyển, bằng chứng là
thánh Giuse đã chọn giải pháp của người chồng yêu thương vợ mình “vô cùng và đến cùng”, khi âm thầm chịu đựng tất cả,
và kín đáo ra đi (x. Lc 1,19).
Đức
Maria cũng không khác gì chồng mình, khi thách đố đặt trọn niềm hy vọng vào Lời
Hứa cứu độ lên cao tột điểm : đồng trinh mà có thai, không biết đến người
nam mà làm mẹ, thôn nữ bé nhỏ, “vô
danh tiểu tốt” mà làm
thân mẫu Đấng Cứu Thế (x. Lc 1,26-38), nhất là Mẹ thừa biết nỗi đau khổ của
thánh Giuse, bạn mình khi thấy mình có thai.
Cả
hai vị đều bị đặt vào chính tâm bão của “cuồng phong nghịch lý” khủng khiếp nhất, mà chỉ có những tâm hồn tuyệt đối hy vọng vào Lời Hứa của Thiên Chúa, hy vọng
vào quyền năng của Chúa Thánh Thần, hy vọng vào công trình cứu chuộc nhân loại
đã được Thiên Chúa hứa qua miệng các ngôn sứ của Ngài : “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai
và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel”, nghiã là “Thiên Chúa - ở - cùng - chúng
ta” (Lc 1,23) mới có thể
đứng vững, ngẩng cao đầu, và khiêm tốn, can đảm “xin vâng như lời thiên sứ truyền dậy” (Lc 1,38).
Thực
vậy, Lời Hứa của Thiên Chúa hầu như đều đặt con người được hứa vào một tình huống
khó hiểu, khó lý giải, nếu không muốn nói là nghịch lý, và luôn đòi con người đặt
trọn ven niềm hy vọng vào Lời Hứa trung tín ấy.
Ápraham
được Thiên Chúa hứa cho làm tổ phụ một dân riêng đông đảo khi Ngài nói với
ông : “Hãy ngước mắt
lên trời và thử đếm các vì sao, xem có đếm nổi không ?”, và “Dòng dõi của ngươi sẽ như thế đó !” (St 15,5-6), trong khi ông đã
già, vợ ông cũng chẳng trẻ hơn ông, và ông bà không có con nối dõi. Chẳng thế
mà khi nghe Thiên Chúa hứa cho vợ ông là Xara có thai và sinh con nối dõi, Ông
Ápraham đã cúi rạp xuống ; ông cười và nghĩ bụng : “Đàn ông trăm tuổi mà có con được
sao ? Còn bà Xara đã chín mươi tuổi mà sinh đẻ được sao ?” (St 18,17).
Môsê
được Thiên Chúa chọn làm nhà giải phóng Ítraen, và được giao sứ mệnh đưa dân ra
khỏi Ai cập (x. Xh 3,7-10) trong một hoàn cảnh đầy nghịch lý : ông phải đến
gặp Pharaô, vua Ai Cập để thuyết phục Pharaô trả tự do và cho dân Ítaren rời bỏ
Ai Cập, nơi họ đang phải lao động cực nhọc, và chịu mọi ngược đãi, trong khi
Môsê chỉ là người chăn chiên (x. Xh 3, 1), ăn nói lại khó khăn, ngọng nghịu như
chính ông tự nhận : “Lạy
Chúa, xin xá lỗi cho con, vì từ hồi nào đến giờ, ngay cả từ lúc Chúa ban lời
cho tôi tớ Ngài, con không phải là kẻ có tài ăn nói, vì con cứng miệng, cứng lưỡi” (Xh 4,10). Nhưng điều Thiên
Chúa cần nơi ông, chính là ông đặt trọn niềm hy vọng vào Lời Hứa của Thiên Chúa
khi Ngài nói với ông : “Ta
đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai Cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than
vì bọn cai hành ha. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát
chúng khỏi tay người Ai Cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi,
rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật ong” (Xh 3,7-8). Chính niềm hy vọng vào Lời Hứa cho ông tin mình được
Thiên Chúa sai đi, và không sợ gì, vì biết có Thiên Chúa ở cùng (x. Xh 3,12).
Trong
Tân Ước, rất nhiều người đã đặt hy vọng vào Lời Hứa của Đức Giêsu, và họ đã được
toại nguyện. Họ là những người đã hy vọng vào Lời Hứa của Thiên Chúa với cha
ông, vì biết Thiên Chúa luôn “nhớ
lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ápraham và con cháu đến muôn đời” (Lc 1,56) ; họ là những
người đã đi theo Đức Giêsu vì hy vọng vào Lời Hứa Nước Trời sẽ được ban cho họ
làm gia nghiệp, Vương Quốc Thiên Chúa làm quê hương, và chính Thiên Chúa là phần
thưởng (x. Mt 5, 1-12) ; họ là những người như người đàn bà bị băng huyết
hy vọng tuyệt đối vào Thiên Chúa của lời Hứa Cứu Độ khi tự nhủ : “Tôi mà sờ được vào áo Người
thôi, là sẽ được cứu” (Mc
5, 28) ; họ là những người như chị phụ nữ tội lỗi đã được tha nhiều vì yêu
nhiều (x. Lc 7,36-50), bởi hy vọng tuyệt đối vào Lời Hứa của Đức Giêsu : “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người
tội lỗi sám hối, ăn năn”
(Lc 5,32) ; họ là những người như Mátta ở làng Bêtania đã hy vọng vào Đức
Giêsu khi cô thưa với Ngài trên đường ra mộ Ladarô, em trai cô : “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây
thì em con đã không chết. Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng
Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy” (Ga 11,23).
Mùa
Vọng về, mùa của Lời Hứa Cứu Độ, mùa Thiên Chúa thực hiện Lời Hứa của Ngài không
chỉ với toàn thể nhân loại khi Ngôi Hai “từ trời xuống thế, bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Ngài đã nhập
thể trong lòng Trinh Nữ Maria và đã làm người” (Kinh Tin Kính), mà còn với mỗi người chúng ta,
bởi có những Lời Hứa kín đáo, thân tình mà chỉ một mình Thiên Chúa và người được
Thiên Chúa hứa biết ; có những lời hứa giữa ta với Chúa, chỉ Chúa biết với
ta ; có những lời hứa ta hứa riêng với
Chúa, và Lời Hứa Chúa hứa riêng với ta. Trong bất cứ hoàn cảnh, tình huống, thời
thế nào, lời hứa của chúng ta, tức lời hứa của con người có thể đổi thay, không
được thực hiện, nhưng Lời Hứa của Thiên Chúa thì mãi mãi bền vững, không dời đổi,
nhạt phai, vì Thiên Chúa là Đấng trung tín, chẳng bao giờ lừa dối ai, và luôn
giữ Lời Ngài đã hứa.
Xin
Chúa cho chúng ta luôn Hy Vọng vào Lời Chúa hứa, như Giôsuê đã nói với dân
Ítraen ngày xưa : “Anh
em hãy nhìn nhận với tất cả tấm lòng và tâm hồn là trong mọi Lời tốt lành mà Đức
Chúa, Thiên Chúa của anh em đã hứa với anh em, thì không một Lời nào đã ra vô
hiệu, nhưng tất cả đều đã ứng nghiệm cho anh em” (Gs 23,14). Và như Đức Maria, người nữ được chúc
phúc hơn hết mọi người nữ vì đặt niềm tin nơi Thiên Chúa, và luôn Hy Vọng ở Lời
Hứa Cứu Độ của Ngài.
Jorathe
Nắng Tím