Làm
từ thiện thường được hiểu là một hành động nhân đạo, một công tác thiện nguyện,
một hành vi đạo đức muốn đem lại cho người khác khốn khổ, bất hạnh, xấu số hơn
mình một món quà vật chất, một trợ giúp hữu hiệu, một an ủi, nâng đỡ tinh thần.
Từ thiện hiểu như một việc tốt lành, đáng trân trọng và mang lại công phúc, ơn
đức cho người thực hiện. Tôn giáo nào cũng đề cao và khuyến khích việc từ thiện.
Hồi Giáo đặt việc từ thiện, bố thí là một luật buộc quan trọng. Thiên Chúa giáo
đặt việc bác ái, giúp đỡ người khác như một giới răn ngang với giới răn thờ phượng,
yêu mến Thiên Chúa. Phật giáo kêu gọi, khuyến khích con Phật làm từ thiện, cứu
giúp người. Các tôn giáo khác như Cao Đài, Hoà Hảo cũng không đi ngoài hướng đi
nhân ái, vị tha, bác ái này.
Như
thế làm từ thiện trước hết là đối diện với người nghèo, là đến với người kém
may mắn, là tiếp cận với người xấu số, cực khổ hơn mình với mục đích làm nguôi
ngoai nỗi đau, làm giảm nhẹ khốn khổ, cơ cực của họ.
1.
Đối
diện với người nghèo:
Người
nghèo ở đây không phải là người nghèo được vẽ trên giấy, người nghèo trong
tranh được lồng kính và treo trên tường ; người nghèo ở đây cũng không là một
quan niệm, một danh xưng rỗng tuyếch để chỉ một thành phần, một số đông, một tập
thể nghèo; người nghèo ở đây càng không là những con số không hồn, lạnh lẽo, vô
cảm trên biểu đồ trong phòng làm việc của nhà xã hội hoặc trên máy tính của ủy
ban dân số. Người nghèo, đối tượng của từ thiện là người nghèo bằng xương bằng
thịt, những người nghèo chỉ còn da bọc xương, gầy gò, lem luốc, tật nguyền, đau
bệnh. Người nghèo có thật bằng những vết thương sâu hoắm trên đùi, lở loét
ngang bụng cho mùi hôi thối đến nôn mửa. Người nghèo “bụng ỏng da chì”, nhợt nhạt,
xanh mướt vì bệnh sốt rét, hoặc bàn tay
không ngón vì phong cùi. Người nghèo có thực: thực trong dáng đứng, thực trong
hơi thở yếu đuối, thực trong cơn đói cồn cào, thực trong manh áo tả tơi, thực
trong ngơ ngẩn đáng thương vì mất trí, thực trong lơ đãng, kỳ cục phải kiên nhẫn
lắm mới chịu đựng được. Ngừơi nghèo ở đây không biết tên mình là người nghèo,
cũng không biết tuổi mình đã bao năm làm người nghèo, càng không biết mình đang ở đâu, chỗ nào trong xã hội.
Người nghèo ở đây nghèo đến độ không cần
phân biệt ngày mai - hôm nay, trước - sau, phải - trái ; vì với họ không ai là
điểm tựa, không gì là hải đăng, không
đâu là địa bàn. Người nghèo ở đây cũng
chẳng quan tâm đến chính sự sống của mình, vì có hiểu tại sao mình sống
đâu.
Đối
diện với một người mà ta chưa biết họ là ai và ta cũng chưa nhận ra ta là ai,
thì làm sao có được buổi hội ngộ có ý nghiã? Giáp mặt nhau mà không nhận ra
nhau, thì còn gì là gặp gỡ, còn gì là thân cận,ncòn gì là thân tình? Vì thế, để
cuộc gặp gỡ giữa ta và người nghèo mang một ý nghiã nhân bản, ta phải tìm biết
người nghèo là ai:
a.
Trước
hết, người nghèo là con người:
Họ
là một con người có hồn và xác, có quyền làm người, có nghiã vụ của con người trong
xã hội, có giá trị, khả năng và vị trí con người như tất cả mọi người khác.
b. Người nghèo là người có lịch sử:
Người
nghèo là người nên có lịch sử, gia thế, cũng như hoàn cảnh và đời riêng cần được mọi người tôn
trọng.
c.
Người
nghèo được sinh ra là người:
Nghèo
chỉ là một tình trạng có thể thay đổi, trong khi bản tính “người” nơi người nghèo thì bất biến, bất khả nhượng.
Như
thế người nghèo khác người giầu ở tình trạng sống, nhưng giống người giầu ở chất
người, chỗ đứng người, tư cách người, giá trị người; nói tắt là nhân vị. Không
khác nhau ở căn tính, chỉ khác nhau ở tình trạng nên cùng chung một vị thế, đứng
chung một hàng, cùng chia sẻ một thân phận, cùng đồng hành trên một hành trình
làm người và gánh chung một định mệnh là
người. Từ điểm then chốt này, ta hình dung cuộc gặp gỡ, đối diện giữa
người làm từ thiện, tạm gọi là người không nghèo và người được trợ giúp thường
có tên là người nghèo. Đó là cuộc gặp gỡ sẽ không mang tính đối đầu giữa ông chủ
và tên nô lệ, cũng không là cảnh người
giầu bố thí “cơm thừa canh cặn” cho người
ăn xin nghèo khổ ; nhưng là gặp gỡ giữa hai con người, hai nhân vị, hai chủ thể
bình đẳng có khả năng đồng cảm, đồng thuận, đồng hành. Đó là cuộc gặp gỡ giữa
hai tâm hồn, hai cuộc đời cần có nhau, cần đến nhau.
Người
cho cần có người nhận ; bởi khi cho đi người ta soi được bóng dáng và diện mạo
thật của mình trong người khác ; bởi khi cho đi hiện hữu của người cho được cắm
sâu hơn, trải rộng hơn trong người khác ; bởi khi cho đi chất người nơi người
cho phong phú, dồi dào hơn và nhất là hạnh phúc được tràn đầy và sâu lắng nhờ
có mặt trong trái tim tha nhân.
2.
Đối
thoại với người nghèo.
Đối
diện với người nghèo là nhận ra họ là người như ta. Đối thoại với họ đòi người
làm từ thiện tự lột bỏ ngôn ngữ giai cấp để mang vào một ngôn ngữ mới của một
người đang làm bổn phận chia sẻ. Nói đến bổn phận là nói đến việc phải làm,
trách nhiệm phải chu toàn, nghiã vụ phải thực thi. Người làm từ thiện không làm
từ thiện với tinh thần “thi ân, bố thí”, làm từ thiện như một hobby, một môn giải
trí lành mạnh, một hành động thu góp công đức thiêng liêng hay tìm danh thơm để
đời. Làm từ thiện phải mang một lớp áo của
nghiã vụ làm người, một ý nghĩa của bổn phận
người với người. Trong nghiã vụ, bổn phận, con người nhận ra tính tương
trợ và trách nhiệm của mỗi người trên toàn thể nhân loại và sự đóng góp cần thiết của toàn thể nhân loại
trên mỗi người. Trách nhiệm chung ấy đòi mỗi người có bổn phận làm cho đời người
khác tốt hơn, hạnh phúc hơn, giầu có hơn, xứng đáng hơn. Trách nhiệm chung đó
cũng lôi kéo mỗi người ra khỏi vỏ ốc ích kỷ của mình vì hạnh phúc của tha nhân.
Như thế, ngôn ngữ trong cuộc đối thoại giữa người làm từ thiện và người nghèo sẽ
không mang cung giọng trịch thượng, khinh miệt hay diễu cợt, bông đùa. Trái lại,
ngôn ngữ sẽ mang lòng nhân ái, chuyển tải tâm tình thông cảm và diễn tả lòng
kính trọng, yêu thương.
3.
Đồng
hành với ngừơi nghèo.
Đồng
hành là cùng đi, không đi cùng người chết, nhưng đi với người sống mặc dù người
sống ấy nghèo. Đi chưa đủ, còn phải đi về
một mục đích đã chọn sẵn. Như thế, dấn thân đồng hành với người nghèo, người
làm từ thiện phải ý thức mình đang đi với người nghèo, tuy nghèo nhưng vẫn đang
sống.
Sở
dĩ phải nhấn mạnh điểm này vì khuynh hướng tự nhiên nơi người làm từ thiện là hay quên người nghèo là người đang sống, cũng
ham sống, muốn sống như mình. Khi vực dậy người nghèo đói, bệnh tật, ta hay
quên sự sống nơi họ bằng giảm thiểu một cách rất vô tình khả năng sống và quỹ sống
của họ, làm như họ không được phép sống khoẻ, sống mạnh, sống sung sức như ta.
Cũng có lúc coi nhẹ sự sống nơi những thân phận hẩm hiu, bất hạnh khi đồng hoá
họ vào những con số.
Đồng
hành với người nghèo hệ tại ở ý thức tôn trọng sự sống, đời sống của họ. Đồng
hành với ai là cốt nâng đỡ họ để được cùng họ đi đến cuối đường, đạt được mục
tiêu. Đồng hành mà chỉ mong sớm được “đơn thân độc mã” trên đường thì còn gì ý
nghiã của đồng hành. Làm từ thiện là cứu sự sống, nâng đỡ sự sống, đấu tranh để
giành sự sống cho những người sắp mất sự sống. Khi cho người đói ăn, ta mong họ
sống. Khi cho người bệnh thuốc, ta mơ họ được hồi sinh. Khi giúp một người đi học,
ta đợi chờ một cuộc sống viên mãn, dồi dào, phong phú nơi họ. Tôn trọng sự sống,
trân qúy sự sống, khát khao sự sống, hết mình vì sự sống của người nghèo, đó là
điều kiện không thể thiếu để đồng hành với họ. Thiếu điều kiện này, ta sẽ chỉ làm
người nghèo tủi thân hơn khi họ phát hiện thái độ coi thường sự sống của họ nơi ta.
4.
Đóng
góp cho kế hoạch phát triển.
Mục
đích phải đến của công tác từ thiện là giúp người nghèo thoát khỏi cảnh nghèo.
Người nghèo chỉ thoát nghèo khi chính họ tự thoát. Nhưng đã có nhiều trường hợp
muốn tự thoát nhưng thoát không xong ... Đó là những trường hợp khả năng chưa đủ
còn cần nhiều trợ giúp.
Làm
từ thiện đòi một cái nhìn xa, một tầm
phóng lớn để thấy trước những gì cần phải làm. Hời hợt, nóng nẩy, vội vã trong
từ thiện sẽ không mang lại kết qủa như ý, vì bất cứ kế hoạch từ thiện nào cũng đòi hỏi thời
gian, mà thời gian vẫn luôn thích níu
kéo lòng kiên trì, tính nhẫn nại.
Vật
chất trong từ thiện đôi khi cũng làm nóng ruột người cho, nhưng kết qủa trong
công cuộc cứu sống con người thường ẩn khuất, kín đáo, không ồn ào, nên phải có
độ nhậy của óc thông minh và tinh tế của tâm hồn nhân ái mới thấy được tất cả
giá trị và mầu nhiệm của nó.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét