Suy Niệm TIN MỪNG CHÚA NHẬT 4
Mùa Chay, Năm A
Có
thể nói : Tin Mừng Gioan là tin mừng Ánh Sáng, vì ngay phần đầu của Tin Mừng,
thánh Gioan đã phấn khởi ca tụng Ánh Sáng : “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời…
Và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Nhờ Ngôi Lời vạn vật được tạo thành, và không có Người,
thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống,
và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và
bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (Ga 1,1-4).
Ánh
sáng ấy được Ngôi Lời đem đến cho nhân loại, cho từng người, như người mù từ
lúc mới sinh đã được Đức Giêsu chữa lành để nhìn thấy ánh sáng (x. Ga 9).
Nhìn
những người anh em khiếm thị, chúng ta thấy họ vẫn sống, nhưng sự sống của họ
luôn bị đe đọa vì không thấy đường, mà đường đi đầy những chướng ngại có thể
làm họ té ngã, bị thương và có thể chết, vì đập đầu vào đá, vào tường, rơi xuống
hố rãnh, sông rạch, hoặc bước vào lửa đang cháy nóng ; anh em khiếm thị vẫn
có thể sống, nhưng sống trong lo lắng vì không thấy những nguy hiểm rình rập quanh
mình.
Vì
thế, cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và người mù từ thuở mới sinh được Tin Mừng
Gioan kể lại là một hẹn hò mang tính sinh tử. Trong cuộc hẹn này, Đức Giêsu đã
đưa anh mù từ bóng tối của những đe doạ, hiểm nguy đưa đến sự chết vào vùng ánh
sáng của sự sống được đảm bảo, bình an.
Trong
cuộc hẹn hò sinh tử này, chúng ta thấy cuộc chiến rất gay go giữa ánh sáng và
bóng tối, giữa đức tin của người mù được sáng mắt và những người biệt phái tuy
mắt sáng nhưng cứng lòng không đón nhận Đức Giêsu là “Ánh Sáng Muôn Dân” (Ga
8,12).
1. Cuộc
chiến trường kỳ và căng thẳng giữa Ánh Sáng và Bóng Tối :
Vừa
rời khỏi Đền Thờ để tránh cơn mưa đá của những nngười Do Thái qúa khích, Đức Giêsu
“nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh” (Ga 9,1) thường ngày ngồi ăn xin bên
lề đường (x. Ga 9,8), và Ngài chữa anh khỏi đui mù, khi “nhổ nước miếng xuống đất,
trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta : “Anh hãy đến hồ
Silôác mà rửa. Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được” (Ga
9,6-7).
Chắc
chắn anh hạnh phúc, vui mừng lắm, vì lần đầu tiên trong đời được nhìn thấy ánh
sáng, được chiêm ngắm trời đất, thiên nhiên, con người, nhất là được nhìn thấy
cha mẹ, anh chị em, họ hàng thân thuộc. Và cũng có nhiều người đã đến chung niềm
vui với anh.
Nhưng
bên cạnh những người đang vui với niềm vui được sáng mắt của anh, đã có những người
như các ông Pharisêu đã không vui vì anh được chữa lành, đã không hài lòng vì
anh được nhìn thấy, đã không bình an khi anh được Đức Giêsu làm phép lạ ban cho
ánh sáng. Họ là những người đang bực tức, căm giận, chỉ vì anh được chữa lành,
và được sáng mắt. Nhưng chính trong hoàn cảnh này, anh có dịp công khai tuyên
xưng đức tin của anh vào Đức Giêsu, người đã cứu chữa anh ra khỏi bóng tối.
Trước
nhóm Pharisêu hùng hổ vặn hỏi, và không ngớt đe đọa, anh luôn giữ một lập trường :
kể lại chính xác những gì Đức Giêsu đã làm và đã nói với anh : “Người tên
là Giêsu đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo : ‘Anh hãy đến hồ
Silôác mà rửa’. Tôi đã đi, đã rửa và tôi nhìn thấy” (Ga 9,11). Bị chất vấn :
“Còn anh, anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh ?” Anh đáp : “Người
là một vị Ngôn Sứ !” (Ga 9,17).
Những
người Do Thái ghét Đức Giêsu còn mắng nhiếc anh thậm tệ và hạ uy tín của Đức
Giêsu khi chụp mũ, lên án Ngài là người tội lỗi, cốt đế anh nghi ngờ, không tin
Ngài là Đấng đến từ Thiên Chúa (x. Ga 9,24-33). Họ còn áp đảo tinh thần cha mẹ
anh, bằng đe dọa : “trục xuất khỏi hội đường kẻ nào dám tuyên xưng Đức
Giêsu là Đấng Kitô” (Ga 9,22).
Sau
cùng, vì không chịu nổi tính bất khuất, lòng biết ơn và niềm tin sắt đá của
anh, nhóm Pharisêu và những người Do Thái về phe họ đã vô cớ ra án cho
anh : “Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta
ư ?. Rồi họ trục xuất anh” (Ga 9,34).
Đức
Giêsu nghe nói họ đã trục xuất anh. Khi gặp lại anh, Người hỏi : “Anh có
tin vào Con Người không ?” Anh đáp : “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi
tin ?” Đức Giêsu trả lời : “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với
anh đây”. Anh nói : “Thưa Ngài, tôi tin. Rồi anh sấp mình xuống trước mặt
Người” (Ga 9,35-38).
Qủa
thực, anh mù bẩm sinh được Đức Giêsu chữa lành đã trải qua nhiều thử thách gây
ra bởi những người Biệt Phái ganh ghét Đức Giêsu, và quyết tâm trừ khử Ngài. Vừa
được sáng mắt sau bao nhiêu năm mù lòa, anh tưởng sẽ được bình an, hạnh phúc với
mắt sáng như mọi người, nào ngờ cả một thế lực tôn giáo tấn công anh, bắt anh
phải phủ nhận phép lạ anh vừa nhận, ép anh phải từ chối hồng ân từ tay người có
tên Giêsu, đối thủ số một của những người đang o ép, khống chế, mua chuộc, gài bẫy
anh phải nói dối, cũng như ráo riết “mớm cung” để anh phải bóp méo, bức tử “sự
thật” bằng không nhận đã được Đức Giêsu “trộn một chút bùn, xức vào mắt, rồi bảo :
Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa”, nhất là không được to tiếng công bố với niềm
xác tín : “Tôi đã đi, đã rửa và tôi nhìn thấy” (Ga 9,11).
Anh
đã phải chiến đấu cam go trước cám dỗ được yên thân, được cơ chế tôn giáo ủng hộ,
được đám đông tuyên dương, để có thể nói thật điều mình nghĩ đúng, nói đúng điều
mình nghĩ thật, khi công khai “kể đúng” những gì Đức Giêsu đã “thật sự” làm cho
anh, và nhắc lại “đúng” những lời của người chữa lành mắt đã “thực sự” nói với
anh. Anh phải chiến đấu vất vả vì lực lượng hùng hậu, và ma mãnh của Bóng Tối
đã không chấp nhận Ánh Sáng được trả lại cho anh, vì Bóng Tối muốn mãi mãi thống
trị anh, và không muốn anh đón nhận Ánh Sáng như hồng ân.
Những
năm tháng mù loà, anh không thể mường tượng thế nào là ánh sáng, vì bóng tối với
thời gian đã làm anh quen và không còn thấy xa lạ, khó chịu, bực bội với bóng tối,
như người sống nhiều năm trong hang động, hay lâu ngày bị giam cầm dưới hầm tối
sẽ lảo đảo, té nhào phút đầu tiếp cận ánh sáng, nên khi có ánh sáng ùa vào cuộc
đời, anh cũng phải dũng cảm chiến đấu để Vượt Qua bóng tối, đi vào Ánh Sáng, chứ
không ngoan cố ở lì trong bóng tối và không chịu thoát ra.
2. Kết
qủa khác biệt giữa Ánh Sáng và Bóng Tối :
Anh
mù được chữa lành đã thấy ánh sáng, và khi đón nhận ánh sáng, anh đã nhận ra Đức
Giêsu là Thiên Chúa, Đấng đã cứu anh khỏi bóng tối mù loà.
Đấng
ấy đến để ban ánh sáng cho nhân loại, nhưng không phải tất cả mọi người đều mở
lòng đón nhận ánh sáng như anh. Bằng chứng là những người Pharisêu và nhiều người
Do Thái có mặt hôm đó đã lên tiếng phủ nhận phép lạ ánh sáng của Đức Giêsu khi
Ngài chữa lành anh, mặc dù phép lạ đã xẩy ra tỏ tường, và họ kiểm chứng được tận
mắt, tận tay, tại chỗ.
Đó
là lý do thánh Gioan Tông đồ đã nhấn mạnh trong phần mở đầu Tin Mừng : “Ngôi
Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa
thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người
đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,9-11). Cũng như
chính Đức Giêsu đã khẳng định, trước những ngoan cố, và phủ nhận Ánh Sáng của
nhóm Pharisêu và những người Do Thái cứng lòng : “Tôi đến thế gian này
chính là để xét xử : cho người không xem thấy đuợc thấy, và kẻ xem thấy lại
nên đui mù !” (Ga 9,39).
Nhìn
vào anh mù được chữa lành, chúng ta thấy anh là người thiện tâm, khi lương thiện
đón nhận “hồng ân được sáng mắt” được ban từ tay người có tên Giêsu, mà sau đó
anh đã tuyên xưng niềm tin ở Ngài và sấp mình bái lậy (x. Ga 9,38). Chính nhờ mở
lòng đón nhận hồng ân ánh sáng, Thiên Chúa đã cho anh được gặp Ngài, nhận ra
Ngài và thờ lậy Ngài. Cũng chính vì nhận ra ơn Thiên Chúa ban cho mình, mà anh
được bình an, dũng cảm để làm chứng bằng nói lên sự thật Thiên Chúa đã làm cho
anh, trước mọi thách đố, cạm bẫy, cám dỗ, thử thách của ác nhân.
Bên
cạnh ơn bình an của đức tin, anh còn nhận được hoa trái ngon ngọt của Ánh Sáng
là Lương Thiện, Công Chính và Chân Thật như thánh Phaolô đã ân cần nhắc bảo các
tín hữu Êphêsô : “Anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng ; mà ánh sáng
đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật” (Ep 5,8-9).
Ngược
lại, khi nhìn vào những người chống lại ánh sáng, tức chống lại Đức Giêsu, như
nhóm Pharisêu, chúng ta thấy họ không tin, dù đã thấy tận mắt, đã sờ tận
tay ; thấy họ không bình an, nhưng bất an, bất ổn, tâm hồn bấn loạn vì hận
thù, ganh ghét, khi tìm đủ cách ngụy tạo, vu khống, thúc giục người này người
kia làm chứng gian, nói dối, bóp méo sự thật, như họ đã điên cuồng làm áp lực trên anh mù và gia đình
anh.
Chúng
ta cũng thấy ở những người từ chối ánh sáng này con người và thái độ không chút
“lương thiện, công chính và chân thật”, qua tư tưởng bất chính, lời nói xảo quyệt, và việc làm gian ác, khi tìm mọi
cách tận diệt niềm tin của anh mù vào Đức Giêsu, và giập tắt ánh sáng anh vừa
nhận được như hồng ân vô cùng lớn lao từ Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người.
Vâng,
như anh mù được sáng mắt, nhờ bí tích Thanh Tẩy và Thêm Sức, chúng ta được
Thiên Chúa cho sáng mắt, được lớn lên và xứng đáng hơn mỗi ngày với ơn huệ làm
con cái Ánh Sáng, khi thấy tất cả mọi người, mọi sự chung quanh mình, và nhìn mọi
biến cố xẩy ra hằng ngày theo cái nhìn của Thiên Chúa, và dưới cái nhìn của
Thiên Chúa. Nhờ đó, chúng ta không ngủ mê trong bóng tối, nhưng trỗi dậy dưới
ánh sáng rạng ngời của Đức Giêsu (x. Ep 5,14), Ánh Sáng cứu độ của Thiên Chúa,
Ánh Sáng cứu chuộc muôn dân.
Jorathe
Nắng Tím
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét