Pages - Menu

Thứ Tư, 6 tháng 5, 2020

ĐƯỜNG TRUYỀN GIÁO KHÔNG BIÊN GIỚI (10)

GIỚI TRẺ
Ưu tư lớn của Giáo Hội là giới trẻ, vì người trẻ có nhiều vấn đề hơn người già, do tuổi còn trẻ, nhiều bỡ ngỡ trước cuộc đời. Người già, dù sao cũng đã từng trải, và  nếm đủ mùi đời “ngọt bùi cay đắng”, nên vấn đề của người già cũng trầm lắng, cô đọng, chứ không cháy nóng, bùng phát dữ dội, kinh hoàng như ở người trẻ. Vì thế, với giới trẻ, Giáo Hội luôn quan tâm cách đặc biệt và dồn mọi nỗ lực để đồng hành.
Quan tâm và đồng đành với giới trẻ trước hết chính là biết người trẻ đợi chờ gì ở nhà truyền giáo, và để biết, nhà truyền giáo phải biết lắng nghe, và đón nhận những gì người trẻ muốn nói với mình.
Người trẻ muốn nói với nhà truyền giáo họ yêu mến tự do, khao khát tự do, và mơ ước tự do của họ được tôn trọng. Với tự do, người trẻ sẽ không ngại nói lên những thắc mắc, nghi vấn, kể cả bức xúc, bực bội, bất đồng, đối kháng trong niềm tin, bên cạnh những khó khăn, bế tắc thuộc các lãnh vực khác của đời sống.
Họ sẽ đặt vấn đề hiện hữu của Thiên Chúa, khi dựa vào những luận chứng tiêu cực của những tác giả văn chương, triết học vô thần hoặc chống Kitô giáo, đại loại như: Thiên Chúa chỉ là một tên gọi được dùng để bảo kê, biện hộ cho những cuộc thánh chiến đẫm máu, những toà án dị giáo để thiêu sống, treo cổ những người nghĩ khác mình, không tin những gì mình tin; tên gọi Thiên Chúa không còn đồng nghiã với tình yêu bao dung, lòng thương xót, nhân hậu, mà đồng nghiã với tranh đấu, đương đầu, phủ nhận, khai trừ, loại bỏ, như José Saramango, người Bồ Đào Nha trên diễn đàn trong ngày nhận giải thưởng Nobel về văn chương đã ngang nhiên tuyên bố: “bạo lực phi nhân là do lỗi của Thiên Chúa, phát xuất từ ý tưởng Thiên Chúa, và rất tiếc Thiên Chúa đã không chết đi, như Nietzche đã qủa quyết”.
Họ sẽ nói về ý muốn phủ nhận Thiên Chúa bằng giảm thiểu vai trò của Ngài, bắt đầu bằng kéo Ngài xuống hàng thụ tạo, khi coi Thiên Chúa chỉ là “một từ ngữ, một ý niệm, một ngẫu nhiên”, may lắm là một “mầu nhiệm không bao giờ được mặc khải”. Họ cũng có thể đặt Thiên Chúa ngang hàng nghệ thuật, tình yêu nhân loại, vẻ đẹp thiên nhiên là những gì làm tâm hồn họ cảm thấy sung sướng, phấn khởi.
Với khoa học thì Thiên Chúa là đối thủ, vì theo họ, khoa học đáng tin hơn tôn giáo, nhờ chứng minh, kiểm chứng được, trong khi tôn giáo thì mơ hồ, huyền hoặc, mông lung, xa vời, ảo tưởng.
Họ sẽ đặt vấn đề Đức Giêsu. Trước hết là thiên tính, nhân tính của Ngài. Tiếp đến là vai trò Đấng cứu độ duy nhất của nhân loại, khi đặt vấn nạn: tại sao phải là Đức Giêsu, mà không là Đức Phật Thích Ca, Mahomét hay những thiên chúa khác? Họ cũng đặt vấn đề tương quan giữa Cựu Ứơc và Tân Ước, khi trưng dẫn những điểm không trùng hợp, không ăn khớp, có khi còn đối chọi, mâu thuẫn.  
Họ sẽ đặt vấn đề về Giáo Hội, mà theo họ không còn cần thiết, vì Giáo Hội ngày càng biến thành chướng ngại hơn là cơ hội trên đường họ tìm gặp Đức Giêsu. Để làm chứng, họ đưa ra hình ảnh về một Giáo Hội bảo thủ, già nua, lạc hậu, một Giáo Hội đi ngoài thế giới, không đồng hành, đồng cảm với con người thời đại, một Giáo Hội  mất dần khả năng lắng nghe, chuyển tải Tin Mừng và làm chứng Đức Giêsu. Họ đưa ra con số người có đạo nhưng không sống đạo, những người Kitô hữu cả đời chỉ đến nhà thờ hai lần, mà cả hai lần  đều được người khác bế bồng hoặc khiêng tới: ngày rửa tội, và ngày an táng. Họ cho chúng ta xem những cảnh nhà thờ lác đác giáo dân những lễ chúa nhật, và vắng hoe đêm vọng Phục Sinh với dăm ba người lớn tuổi. Họ còn phơi bầy tội lỗi của nhiều người có trách nhiệm trong Giáo Hội và coi đó là những chứng cớ không thể chối cãi về một Giáo Hội  thoái hoá, biến thái, không còn dấu vết của Giáo Hội buổi ban đầu ở Giêrusalem khi “tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau… Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ, vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa và được toàn dân thương mến” (Cv 2,44.46-47).
Và họ sẽ đặt rất nhiều vấn đề khác nữa liên quan đức tin, hạnh phúc Nước Trời,  giá trị đời sống, sự chết, đời sau, Giáo Hội và xã hội, đồng thời đợi chờ nhà truyền giáo những giải đáp thỏa đáng cho những vấn nạn về sự sống con người, hôn nhân, tình dục, gia đình…
Tóm lại, giới trẻ là đối tượng đáng yêu vì thích chia sẻ, đáng mến vì thao thức đi tìm, nhưng cũng đáng sợ vì ngang bướng, dễ bất mãn, bất cần, nên nhà truyền giáo cần khôn ngoan khi đồng hành với họ:
1.   Đồng hành với trái tim cởi mở đối thoại:
Bởi có lắng nghe, mới được lắng nghe; có biết nghe mới biết nói, nên không lắng nghe, nhà truyền giáo sẽ không nói được với giới trẻ, và người trẻ cũng không  nói gì với nhà truyền giáo, và hai bên sẽ mất nhau, vì không còn đối thoại. Không lắng nghe, giới trẻ rời xa nhà truyền giáo; không đối thoại, nhà truyền giáo đánh mất  người trẻ.
Trái lại, như mục tử nhân lành nghe tiếng chiên để chiên nghe được tiếng mục tử. Kết qủa của đối thoại luôn bắt đầu từ phía chủ chăn và tùy thuộc trái tim cởi mở đối thoại của chủ chăn, bởi chiên rất ít khi dám mở miệng nói trước, nếu cảm thấy chủ chăn khép kín, dè dặt, hoặc cảm nhận chủ chăn không muốn mở lòng lắng nghe.
Thực vậy, có đồng hành với trái tim cởi mở đối thoại, nhà truyền giáo mới có thể nói  được với người trẻ, như câu trả lời cho vấn nạn của họ: phải định nghiã cho bằng được Thiên Chúa, để có thể tin Thiên Chúa hiện hữu:
“Tôi không định nghiã Thiên Chúa”, nhưng tôi chỉ muốn giúp Bạn khám phá Thiên Chúa, giúp Bạn chia sẻ những gì Đức Giêsu đã mặc khải cho chúng ta về Thiên Chúa.
“Bạn muốn những chứng cứ về sự hiện hữu của Thiên Chúa, và chưa bao giờ Bạn thoả mãn với những chứng cứ được trình bầy, vì theo Bạn, những chứng cứ ấy không thuyết phục. Nhưng khi muốn định nghiã Thiên Chúa, Bạn đã kéo Thiên Chúa xuống ngang hàng vật chất do ảnh hưởng chủ nghiã duy vật, trong khi chúng ta không thể định nghiã Thiên Chúa bằng ngôn ngữ nhân loại rất nghèo nàn, chưa kể chúng ta biết qúa ít về Ngài. Đàng khác có những từ ngữ ngay cả chúng ta cũng  không hiểu cùng một nghiã.
“Vì thế, mỗi người chúng ta cảm nghiệm Thiên Chúa một cách khác nhau. Như những Kitô hữu khác, tôi cảm nghiệm Thiên Chúa luôn có mặt bên tôi mọi nơi, mọi lúc. Chúng tôi biết Thiên Chúa, vì Đức Giêsu đã nói với chúng tôi về Thiên Chúa, và niềm tin của chúng tôi đặt  trên Đức Giêsu Kitô. Chính Đức Giêsu giúp chúng tôi từ nhân tính  đi vào thiên tính của Thiên Chúa nhờ nhân tính của Ngài”.   
2.   Đồng hành  với tâm hồn lạc quan, tích cực:
Tâm hồn lạc quan sẽ giúp nhà truyền giáo tìm ra những gì tích cực, những điểm chung , nhờ đó, sẽ dễ dàng đưa đến gặp gỡ khi loan báo Tin Mừng cho giới trẻ, vì họ cần những gì tích cực, những mẫu số chung như điểm nhấn quan trọng để có thể vượt qua những mâu thuẫn, căng thẳng trên đường tìm gặp chân lý.
Nếu người trẻ đam mê nghệ thuật, yêu thích vẻ đẹp thiên nhiên, khao khát yêu và được yêu, nhà truyền giáo hãy nói với họ: tất cả những điều họ yêu thích và tìm kiếm đó đều không xa lạ với Thiên Chúa, vì những gì tốt, đẹp, chân thật gặp được ở các thụ tạo trong vũ trụ này đều quy hướng về Thiên Chúa là Chân - Thiện - Mỹ tuyệt đối.
Nếu người trẻ đề cao khoa học, nhà truyền giáo cũng hãy nói với họ: Khoa học phục vụ con người và nhờ những phát triển của khoa học, đời sống con người được nâng cao để con người hạnh phúc hơn. Như thế, Tin Mừng không chống lại khoa học, vì Tin Mừng cũng mong ước con người được hạnh phúc, nên có rất nhiều nhà khoa học hăng say nghiên cứu với ước muốn nâng cao tâm hồn để tìm gặp Thiên Chúa. Những nhà khoa học có đức tin này đã luôn khẳng định: khoa học không có câu trả lời thoả đáng cho tất cả mọi vấn nạn của con người, và càng khám phá, càng phát minh, nhà khoa học càng nhận ra chỉ một mình Thiên Chúa là cội nguồn và là cùng đích, nên chứng minh “Thiên Chúa không hiện hữu” là điều khoa học hoàn toàn bất lực, không thể thực hiện, bởi “kỳ công của Chúa không ngừng lên tiếng ca tụng Ngài”.
Nếu người trẻ ngại đi nhà thờ, tránh đến gần Thiên Chúa vì mặc cảm là người tội lỗi, hoang đàng, khô khan, nguội lạnh, nhà truyền giáo hãy nói cho họ biết: con người càng đi sâu vào nguy hiểm, thì Thiên Chúa càng có lý do có mặt để cứu giúp, vì Ngài không vắng mặt trong bất cứ hoàn cảnh nào, bất cứ nơi nào, bất cứ lúc nào con người cần đến Ngài, vì Ngài thương con người vô cùng và đến cùng, nên sẽ không hợp lý, nếu chúng ta đơn phương và dứt khoát khước từ Ngài, không cho phép Ngài có mặt bên chúng ta. Và một khi đã tin và yêu Ngài, chúng ta có quyền than thở, kể cả hét to cho Ngài nghe nỗi thống khổ của trái tim đang nổi loạn, bởi Ngài là Cha nhân hậu luôn lắng nghe con cái mình.
3.   Đồng hành với tinh thần tôn trọng tự do:    
Sau cùng, đồng hành với tinh thần tôn trọng tự do của người trẻ là chià khóa mở cửa tâm hồn người trẻ, bởi người trẻ cần được tôn trọng, và cái cần được tôn trọng nhất ở họ, chính là tự do.
Lịch sử nhân loại đã minh chứng: các cuộc nổi loạn chống độc tài, bạo lực đàn áp đều do người trẻ khởi xướng và thực hiện, bởi tuổi trẻ khao khát tự do, say mê tự do, sẵn sàng sống chết cho tự do, nên ai tước đọat tự do của người trẻ, người nào cưỡng hiếp tự do của giới trẻ đều phải trả giá rất đắt, bởi người trẻ thà chết không để mất tự do.
Vì thế, nhà truyền giáo không thể xâm phạm tự do của người trẻ khi loan báo Tin Mừng, dưới bất cứ hình thức, và bằng bất cứ phương tiện nào, trái lại, tuyệt đối tôn trọng tự do chọn lựa của họ.
Có tuyệt đối tôn trọng tự do, nhà truyền giáo mới có thể đối thoại với người trẻ cách chân thành và cởi mở, để trả lời cho họ vấn nạn “chân lý và các tôn giáo”:
Sở dĩ tôi chọn Kitô giáo, vì Thiên Chúa đã được mặc khải qua Đức Giêsu, Đấng đã đến trong thế gian nói cho chúng tôi Thiên Chúa là ai, và vì sứ mệnh mặc khải này, Đức Giêsu đã phải hy sinh mạng sống mình.  
“Còn Sự Thật mà các tôn giáo cho rằng  mình nắm giữ trọn vẹn, thì với chúng tôi, những Kitô hữu, chính là Đức Giêsu. Đó là lý do Giáo Hội công giáo không nói mình nắm giữ sự thật, nhưng biết sự thật, và cố gắng sống sự thật. Vì sự thật không là gì khác, nhưng là Đức Giêsu, sự thật mà thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II đã khẳng định: các tôn giáo khác đều có một phần. 
Đồng hành với tinh thần tôn trọng tự do, nhà truyền giáo sẽ nói cho nguời trẻ biết sứ mệnh của người đi rao giảng Tin Mừng là làm chứng về những điều chính bản thân đã khám phá, cảm nghiệm trong Thiên Chúa, và trình bày, cắt nghiã Thiên Chúa là ai, nhưng câu trả lời không thuộc về nhà truyền giáo, nhưng thuộc quyền tự do của người trẻ vừa được loan báo Tin Mừng, bởi người ta không có quyền áp đặt Thiên Chúa và  không có quyền khống chế, kiểm soát niềm tin.
Trong lịch sử cũng đã có những trang nhem nhuốc, khi Giáo Hội rơi vào cám dỗ ép buộc người khác phải tin, bắt buộc người ta phải chấp nhận Thiên Chúa, bằng những cuộc thánh chiến, những toà án xử người dị giáo, và dàn hỏa thiêu trừng phạt. Nhưng tất cả đã thất bại, bởi Thiên Chúa đã tự mặc khải mình là Tình Yêu, nên chính trong tự do là điều kiện của tình yêu mà Thiên Chúa để con người tự chọn lựa, tự quyết định có đi theo Ngài hay không, mà không dụ dỗ, đẩy đưa, o ép, đe dọa, làm áp lực.
Đồng hành với tinh thần tôn trọng tự do, nhà truyền giáo sẽ làm ngời sáng dung nhan tốt lành, nhân hậu của Thiên Chúa bằng nói cho người trẻ: “Không tin” không phải là tội, nếu không biết có Thiên Chúa. Đàng khác, không tội nào lại không thể tha thứ, trừ tội phạm đến Chúa Thánh Thần, khi “tôi tin Thiên Chúa, tôi biết Ngài hiện hữu, nhưng tôi từ chối Ngài”, tội mà không nhiều người lỗi phạm. 
Thực vậy, trên đường truyền giáo, người môn đệ Đức Giêsu sẽ gặp rất nhiều người trẻ, như Đức Giêsu đã gặp. Gặp họ để kể cho họ nghe về Đức Giêsu, để giới thiệu họ với Đức Giêsu, như Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu hai môn đệ của ông cho Ngài: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu. Đức Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình thì hỏi: “Các anh tìm gì thế?” Họ đáp: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” Người bảo họ: “Hãy đến mà xem”. Họ đã đến xem chỗ ở của Người và ở lại với Người ngày hôm ấy” (Ga 1,36-39).
Thái độ của Đức Giêsu cũng như của Gioan Tẩy Giả đều làm chứng tinh thần cởi mở lắng nghe, lạc quan tích cực, nhất là tôn trọng tự do của hai môn đệ trong lựa chọn “theo Đức Giêsu hay không theo”. Gioan Tẩy Giả đã không ép buộc hai môn đệ mình phải đi theo Đức Giêsu, nhưng chỉ giới thiệu và để hai ông tự do quyết định. Phần Đức Giêsu cũng không hứa hẹn, dụ dỗ  hay dọa dẫm gì, mà chỉ nói với hai ông “Hãy đến mà xem” khi quay lại thấy hai ông đang đi theo mình. Và hai ông đã ở lại với Ngài sau khi đã “đến mà xem”: Hình ảnh rất đẹp của ơn gọi người Kitô hữu: hoàn toàn tự do, tự nguyện đi theo Đức Giêsu.
Tin Mừng Matthêu cũng kể về người thanh niên giầu có muốn đi theo Đức Giêsu. Anh đến gặp Ngài, chia sẻ với Ngài đời sống chuẩn mực, đạo đức của anh, và hỏi Ngài: “Tôi còn thiếu điều gì nữa không?”. Đức Giêsu tỏ vẻ hài lòng, và đề nghị anh tiến xa thêm một bước nữa: “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”. Nghe lời đó, người thanh niên buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải” (Mt 19,20.21).
Đó là cuộc đối thoại “đồng hành” rất chân thành, thân thiện giữa Đức Giêsu và người thanh niên, ở đó, Đức Giêsu và anh thanh niên, cả hai đều cởi mở trao đổi, chia sẻ thao thức thiêng liêng. Anh thanh niên không giấu diếm gì về cuộc sống của mình với Đức Giêsu, và Đức Giêsu luôn chăm chú lắng nghe, và trân trọng trao đổi khi đề nghị anh tiến xa hơn, nếu anh muốn nên hoàn thiện. Ngài đã không mồi chài hay ép buộc, nhưng chỉ đề nghị. Còn quyết định bước tới hay dừng lại, đi hay ở, theo hay không theo hoàn toàn do anh quyết định, bằng chứng là anh đã bỏ đi, sau khi nghe Ngài đề nghị: bán hết tài sản và cho người nghèo.
Nhà truyền giáo cũng không thể làm khác Đức Giêsu, nghiã là cũng phải đồng hành “cởi mở đối thoại”, đồng hành “lạc quan, tích cực”, đồng hành “tôn trọng tự do”, khi gặp gỡ giới trẻ, lên đường với người trẻ, bởi Tin Mừng chỉ có thể đến với họ, khi được nhà truyền giáo loan báo với tinh thần đối thoại, lạc quan và tôn trọng tự do mà hơn ai hết, người trẻ cảm nhận rất tinh tế và bén nhậy. 
Trên đây chỉ là một vài nét rất đơn sơ trong công cuộc loan báo Tin Mừng cho người trẻ thời đại, một công trình rất khó khăn, đòi nhiều cố gắng, hy sinh, mà Giáo Hội không ngừng dồn mọi nỗ lực, và liên lỉ cầu nguyện.
Xin cho người trẻ hôm nay xa dần lối sống của những chủ thuyết Duy Vật vô thần, Hiện Sinh hưởng thụ, Tương Đối, Thực Dụng, để thao thức với Chân Thiện Mỹ, và tìm về Thiên Chúa là Chân Thiện Mỹ tuyệt đối, và là Nguyên Thủy, Cùng Đích của tất cả mọi người, mọi loài, mọi sự.
Jorathe Nắng Tím    

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét