Pages - Menu

Thứ Ba, 30 tháng 6, 2020

TẠI SAO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO ĐI THEO GIÁO PHÁI? (6)


                            NGƯỜI TRẺ CẦN BỐN BƯỚC ĐỒNG HÀNH 
Hiện tượng người trẻ công giáo bỏ đạo đi theo các giáo phái ở những thành phố lớn là sự thật không thể coi nhẹ, và đòi buộc chúng ta, những bậc cha anh có trách nhiệm phải xem lại nhiều điều, nhiều sự, mà một trong những sự việc cần xem lại và điều chỉnh chính là đồng hành với các em.
Chúng ta rất hay nói đến đồng hành và có nhiều sáng kiến đồng hành, nhưng thực hiện một quy trình đồng hành toàn phần thì dường như chưa mấy được quan tâm.
Thực vậy, đồng hành với người trẻ là đi với họ trên đường dài, rất dài, nên sẽ không thành công trong sứ vụ đồng hành, nếu chỉ đi với họ dăm ba cây số đã mỏi chân rời xa họ; sẽ khó có thể thành tựu trong công tác đồng hành với người trẻ, nếu chỉ phơn phớt, lưa thưa, thời vụ, mà không trường kỳ “theo đuổi” kiểu “mưa dầm thấm lâu”; sẽ dở dang nửa vời hành trình, nếu đồng hành kiểu “biến cố, sự kiện”, mà không từng bước tiệm tiến, “bám sát” từng ngày. Tắt một lời, đồng hành với người trẻ trên hành trình đức tin đòi kiên tâm đi với người trẻ suốt hành trình, và kiên nhẫn cùng người trẻ đi qua bốn bước quan trọng như Đức Giêsu đã cùng đi với Nhóm Mười Hai Tông Đồ của Ngài.
1.   NGHE:
Bước thứ nhất là Nghe. Người trẻ cần nghe, nhưng chỉ nghe khi có người nói, người giảng. Giảng càng thuyết phục, nói càng chí lý, người trẻ càng chú ý lắng nghe.  
Đức Giêsu đã bắt đầu với các tông đồ hành trình đồng hành giáo dục đức tin bằng nói với các ông, giảng cho các ông giáo lý của Ngài. Ngài nói nhiều, giảng nhiều để các ông nghe, vì mọi tương giao, thông tin, thông cảm đều khởi đi từ nói cho nhau nghe và lắng nghe nhau nói.
   Nhưng nói với người trẻ không dễ. Càng khó hơn vì nói Lời Thiên Chúa, giảng giáo lý, giáo huấn của Giáo Hội, nên không phải ai cũng “nói được và được nói”, vì người nói phải được chuẩn bị khả năng và trang bị kiến thức tương đối đầy đủ.  
2.   HIỂU:
Nghe nhưng không hiểu, nghe nhưng chưa nắm vững vấn đề, nghe nhưng chưa “tâm phục khẩu phục”, nghe nhưng còn nhiều nghi vấn, thắc mắc. Đó là điều tất nhiên, nên bước thứ hai của đồng hành là Cắt Nghiã để người trẻ hiểu điều đã nghe, là lý giải chi tiết từng điểm, từng đọan để người nnghe hiểu thấu đáo, hiểu rõ ràng, hiểu sâu sa.
Vì thế, chúng ta phải sẵn sàng đón nhận những ý kiến, những thắc mắc của người trẻ, và đừng bao giờ giập tắt những vấn nạn, những nghi vấn, kể cả những bất đồng quan điểm của các bạn ấy, bởi làm như thế vô tình chúng ta cắt đứt giao lưu, đóng đường đi tới và tuyên bố bỏ cuộc chơi “đồng hành” với người trẻ.
Như Đức Giêsu đã kiên nhẫn cắt nghiã cho các môn đệ, chúng ta cũng phải kiên trì chịu đựng mất thời giờ, chịu đựng “giữ bình tĩnh”, dù đôi lúc đã phải than thở như Đức Giêsu, khi đức tin của các môn đệ còn qúa yếu kém: “Tôi còn phải ở với các người cho đến bao giờ, còn phải chịu đựng các người cho đến bao giờ nữa?” (Mt 17,14).
3.   TIN  
Tin Mừng Gioan đã thuật lại rất chi tiết phép lạ hoá nước thành rượu giữa tiệc cưới ở Cana (x. Ga 2,1-12), và kết luận: “Đức Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên này tại Cana miền Galilê và bày tỏ vinh quang của Người, để các môn đệ tin vào Người” (Ga 2,11).
Để người khác tin, chứng nhân phải làm chứng bằng hành động thiết thực, qua việc làm cụ thể, bởi lời giảng, lý luận, chú giải, cắt nghiã, tất cả chỉ là “dọn đường” cho hành động, vì người nghe chỉ tin người nói khi người nói thực hiện và sống điều mình nói, mình cắt nghiã, mình rao giảng.  Đó là lý do Đức Giêsu đã dùng những phép lạ để các môn đệ và đám đông tin vào Ngài. Ngài đã nói với họ Ngài là Đấng Thiên Sai, là Con Thiên Chúa hằng sống, là Đấng Cứu Độ, và những gì Ngài nói về mình đã được chứng minh qua các phép lạ chữa lành người đau ốm, trừ qủy, có quyền trên thiên nhiên, làm cho kẻ chết sống lại. Vì thế, người nghe mới tin Ngài, đám đông đi theo nghe Ngài giảng mới tin Ngài, những ngư phủ được Ngài gọi đi với Ngài mới tin Ngài, và chính chúng ta, những nngười đang sống mới tin Ngài là Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ muôn dân. 
Phần chúng ta, những chứng nhân của Đức Giêsu, chúng ta không được mời gọi “làm phép lạ” hoá nước thành rượu, hay cho người chết sống lại, nhưng được mời gọi làm phép lạ yêu thương. Đây chính là “năng quyền làm phép lạ” Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người để làm chứng điều chúng ta nói về Ngài, làm chứng Đấng chúng ta tin yêu và phụng thờ, làm chứng chúng ta là môn đệ của Đức Giêsu, và anh em của mọi người, đồng thời là bảo chứng chắc chắn chúng ta là khí cụ bình an, đem lại hạnh phúc cho nhau và nhân loại.
Vâng, duy nhất Tình Yêu là việc chúng ta phải làm để người trẻ tin điều chúng ta nói, tin điều chúng ta dậy, tin lời chúng ta giảng dậy, cắt nghiã, nên chỉ nói mà không thực hành đức ái, giảng mà không sống đức yêu thương, chú giải mà không hành động như giới luật yêu thương đòi hỏi, chúng ta chẳng xây dựng được niềm tin của ai, cũng không đồng hành được với bạn trẻ nào trên hành trình đức tin đích thực. Thánh Phaolô đã qủa quyết điều này, khi ngài viết: “Giả như tôi nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chủm choẹ, xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi rời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13,1-3).
Ngài cũng  cho chúng ta thấy hoa trái của phép lạ tình yêu, khi chúng ta làm chứng điều mình nói, giáo lý mình giảng dậy bằng hành động đức ái cụ thể, sống động, thiết thực: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian dối, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cr 13,4-7).
Với những hoa trái vừa kể thì qủa thực Thiên Chúa đã ban cho các chứng nhân của Ngài hồng ân vô cùng nhiệm lạ, bởi với những hoa trái ngọt ngào của Đức Ái, không ai sẽ có thể từ chối không tin vào Thiên Chúa là Tình Yêu, Đấng mà các chứng nhân của Ngài đang “làm chứng” bằng hành động, và đời sống yêu thương, như Đức Giêsu đã khẳng định: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con thương yêu nhau” (Ga 13,35).
4.   THEO
Và sau cùng là đồng hành như người bạn đường biết thông cảm và chia sẻ với người trẻ trên hành trình theo Đức Giêsu.
Sở dĩ phải biết thông cảm, vì người trẻ không thích đi với ai lúc nào cũng ra vẻ “kẻ cả, trịch thượng, hối hả lên lớp, vội vã phê bình”; sở dĩ phải biết chia sẻ, vì người trẻ không chấp nhận lên đường với người thích “diễn sâu” vai cấp trên hống hách, ông chủ ki bo, khép kín, dè dặt, nghi ngại. Vì thế, không dễ đi với người trẻ, không đơn giản cùng người trẻ kề vai sát cánh, nhưng đòi chúng ta phải  xóa mình, bỏ mình, quên mình để có thể trẻ trung như người trẻ, đơn sơ, nhẹ nhàng như tuổi trẻ, thông thoáng, qủang đại như tâm hồn trẻ. Có như thế, con đường cùng bạn trẻ đến và ở lại với Đức Giêsu mới không rủi ro bất chợt giữa chừng đổi hướng.
Xin Thánh Tâm Chúa Giêsu ban cho chúng ta trái tim hiền lành và khiêm nhường  để biết nói, biết cắt nghiã, biết hành động, biết bước đi trong Thiên Chúa là Tình Yêu với người trẻ trên hành trình đức tin.
Jorathe Nắng Tím

Thứ Hai, 29 tháng 6, 2020

BÉ CẦN KỶ LUẬT


Ba mẹ cứ tưởng bé không cần kỷ luật, nên cứ để bé tự do tung hoành, muốn ăn lúc nào, ngủ giờ nào cũng được. Cũng vì nghĩ kỷ luật làm bé  khó lớn nên ba mẹ để bé mặc sức quậy phá, la hét, bầy bừa. Bé như  ông vua vô kỷ luật muốn làm gì thì làm và bé không còn biết sợ ai. Một ngày của bé là một ngày kinh dị cho chị vú. Và chị bắt đầu ngao ngán cái cảnh “hoang dã, vô kỷ luật” của bé …

Người viết đã từng chứng kiến cậu bé 6 tuổi, con một gia đình giầu có mà người ta gọi là đại gia hất tung đĩa bánh và hét vào mặt chị người làm: “Tao đã bảo, tao không ăn mà !”. Hình ảnh ấy đã ghi sâu và trở thành ấn tượng cực xấu trong đầu người viết đối với con cái một số các “trưởng giả học làm sang” thời thượng ở Việt Nam.
Con cái thường dựa vào thế giá của gia đình để nghĩ rằng mình không chịu lệ thuộc một quyền lực ràng buộc nào. Những câu ấm, cô chiêu thời đại phóng xe như bay trên đường phố Sàigòn, ăn nhậu rồi phá phách trong các quán bar, phòng trà ở các thành phố lớn đã đủ để thấy cái cảnh phá sản giáo dục trong nhiều gia đình có tiền, có chức ở Việt Nam hôm nay. Đây là một sự thật đau lòng mà người có tâm huyết với tương lai đất nước phải can đảm nhìn nhận và tìm cách cứu chữa.
Thực ra, ngay từ tuổi thơ, em bé đã cần một kỷ luật. Em cần và em muốn. Nhiều nhà tâm lý nhi đồng đã qủa quyết: các em bé ngay từ khi sinh ra đã cần một kỷ luật và mong cha mẹ áp dụng kỷ luật cho em, bởi chin tháng trong lòng mẹ là chin tháng em đã quen sống kỷ luật. Cơ thể của mẹ có nội quy sinh hoạt và em đắm mình trong sinh hoạt có kỷ luật, thứ tự, lớp  lang ấy. Vì quen với kỷ luật khi còn là thai nhi, em bé thấy hụt hẫng khi chào đời và mong được tiếp tục sinh hoạt trong kỷ luật.
Tại sao em bé cần kỷ luật?  Vì kỷ luật bảo đảm  an toàn cho em. Đây là lý do nền tảng, vì chính em đã thấy ích dụng của kỷ luật khi nằm trong bụng mẹ: nếu không có kỷ luật cơ thể, chắc chắn em đã bị nuốt sống bởi các tế bào khác, khi em chưa kịp thành hình trong lòng mẹ. Kỷ luật không là hình phạt, cũng không tiêu cực như  nhiều người lầm tưởng. Chính vì nghĩ sai, tưởng lầm kỷ luật mà người lớn đã chủ trương tháo khoán, buông lỏng tất cả và để em muốn làm gì thì làm. Nhưng người lớn đã chọn lựa sai, khi chính em đang cần và đi tìm một kỷ luật để được an toàn trong đời sống.
Trẻ em không những cần mà còn muốn sống có kỷ luật. Khi em quậy phá tanh bành chính là lúc em đang kêu cứu: “Hãy cho con kỷ luật”. Chính trong những hổ lốn, vô trật tự là khát vọng kỷ luật ở em dâng cao. Một cách vô thức, em bé gào thét để được người lớn cho vào kỷ luật, để được cha mẹ áp dụng kỷ luật; vì nhờ kỷ luật em không còn sợ những đe doạ, rủi ro đến từ nhiều phiá.
Như thế, em bé tuy còn non nớt nhưng đã nhận ra một cách vô thức: kỷ luật rất cần thiết cho chính sự sống của em. Sở dĩ kỷ luật cần cho mọi người, vì kỷ luật mang những đặc tính:
a.   Hướng dẫn: Kỷ luật như những bảng chỉ đường giúp người đi đường, người lái xe nhận ra đúng hướng phải đến, đúng đường phải đi. Thiếu bảng chỉ đường, làm sao ngườ ta có thể đi mà không lạc? Em bé sống vô kỷ luật cũng như người đi mà không biết mình đi đâu, về đâu. Một em bé quen sống vô kỷ luật sẽ là một người lớn lông bông, sống không bến bờ như thuyền không lái.
b.   Bảo vệ: Kỷ luật như tường cao bao quanh sân thượng để tránh bị nhào đầu xuống đất, như hàng rào, song sắt để không ai trượt chân rơi xuống sông khi đi trên cầu. Kỷ luật không mang tính đàn áp, khống chế, bóp chẹt như nhiều người lầm tưởng, nhưng căn bản là bảo vệ an toàn.
c.    Huấn luyện: Đặc tính quan trọng khác của kỷ luật là huấn luyện, đào tạo con người. Không một trường huấn luyện nào dám bỏ quên vai trò của kỷ luật. Không một trường học nào được gọi là trường điểm, trường nổi tiếng mà không “nổi tiếng, đạt điểm cao” về kỷ luật. Không kỷ luật, không có đào tạo. Không kỷ luật,  không huấn luyện được ai, vì kỷ luật là phương tiện rất cần thiết để  cho con người  trưởng thành, có lòng tự trọng, có khả năng ứng xử, tinh thần phục vụ, và nếp sống,  tư cách đạo đức.
Vì thế, ngay từ tuổi thơ, em bé cần được bầu khí kỷ luật bao bọc. Bầu khí kỷ luật sẽ giúp em chóng lớn vì em thấy mình được an toàn; giúp em hiểu biết giới hạn của mình và ranh giới cần được tôn trọng nơi người khác để đời sống chung được hài hoà, tốt đẹp. Kỷ luật cho em kỹ năng  ứng xử khi biết dựa vào kỷ luật để biết điều gì được phép, điều gì không đưọc phép, điều gì nên làm và điều gì phải tránh. Kỷ luật hướng dẫn chọn lựa của em, vì em học được nguyên tắc  chọn lựa khi sống kỷ luật. Kỷ luật còn cho em tự  tin ở mình khi nhận ra mình là một giá trị được kỷ luật gìn giữ, che chở.        
Khi tập cho con thơ sống kỷ luật từ việc tôn trọng giờ bú sữa, giờ thay tã, giờ ngủ, giờ chơi, giờ đi dạo, giờ đi tắm, cha mẹ đang tập cho con  nếp sống quy củ, trật tự sau này. Thiếu nếp sống trật tự, con cái sẽ không thể thành công trong cuộc sống. Nhiều cha mẹ vì lầm tưởng kỷ luật sẽ làm khổ con nên không quan tâm tập cho con nếp sống kỷ luật từ kỷ luật vệ sinh cá nhân, kỷ luật ăn uống, kỷ luật ngủ nghỉ, kỷ luật giải trí, kỷ luật học hành, kỷ luật tôn giáo như đọc kinh sáng tối đến kỷ luật tương quan như chào cha mẹ, ông bà. Không dậy con kỷ luật và không áp dụng kỷ luật trong đời sống gia đình, cha mẹ đã vô tình chuẩn bị cho con một đời  thất bại rất chua cay vì thiếu kỷ luật sống. Kỷ luật sống sở dĩ cần thiết vì nó giúp con cái nhận ra đúng con đường phải đi, việc phải làm, chọn lựa phải dấn thân, bổn phận phải chu toàn. Chính thói quen có kỷ luật nhắc nhở con khi cha mẹ không ở gần. Chính kỷ luật gìn giữ con khi cha mẹ khuất bóng, xa xôi. Chính kỷ luật sẽ nâng đỡ con khi sóng gió kéo về thử thách. Kỷ luật còn tạo uy tín cho con dưới mắt mọi người và  cho con một vị thế xứng đáng trong cộng đồng, xã hội.
Thống kê của TNS Sofres năm 2012 cho biết: có đến 82% cha mẹ đau khổ vì con cái không vâng lời và 76% cha mẹ không tỏ ra có uy quyền.
Nguyên nhân nào đã cho ra hậu qủa tai hại đó, khi con cái không còn vâng lời cha mẹ và cha mẹ xem ra hoàn toàn nhu nhược trước ương ngạnh, ngang tàng của con cái?  Câu trả lời rất đơn sơ: vì con cái thiếu kỷ luật và vì cha mẹ không dựa vào kỷ luật.
Con cái thiếu kỷ luật nên mới không vâng lời cha mẹ. Vâng lời đây không được hiểu là thái độ vâng lời tối mặt, nghiã là cha mẹ bảo sao, con phải nghe vậy, không được “ý kiến ý cò”. Nhưng vâng lời muốn nói ở đây là vâng lời có trách nhiệm khi con cái và cha mẹ có trao đổi, đối thoại để hai bên được nói và được lắng nghe. Chính thái độ vâng lời đối thoại  có trách nhiệm này mới thực là vâng lời của người trưởng thành, có kỷ luật, có giào dục, có tự trọng và lòng hiếu thảo. Đừng hiểu vâng lời là “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”. Những kiểu vâng lời khoán trắng, thụ động, vô trách nhiệm và vô cảm, vô hồn, chưa kể mang nặng hờn dỗi ấy không đem lại ích lợi gì cho ai, trái lại sẽ là nguyên nhân của nhiều mâu thuẫn, thất bại, đổ vỡ. Ngày nay cha mẹ không bảo được con cái, con cái không vâng lời cha mẹ là vì chính cha mẹ đã không cho con sống một đời sống có kỷ luật, để rồi đến một ngày, con cái không còn  mốc chốt nào để bám víu,  không còn tiêu chuẩn nào để chọn lựa, không còn thang giá trị nào để ưu tiên hay từ bỏ. Thiếu kỷ luật, con cái sẽ thản nhiên không vâng lời cha mẹ, vì chính ý niệm vâng lời cũng đã chưa một lần có trong óc em. Đừng quên: những ý niệm luân lý, đạo đức, tôn ty trật tự đều phát sinh từ nếp sống kỷ luật mà em bé học từ thời thơ ấu, nếu được sống trong bầu khí kỷ luật gia đình.
Từ đó, một hệ luận đuợc rút ra, đó là thái độ nhu nhược, đầu hàng của cha mẹ trong việc áp dụng kỷ luật đối với con cái. Uy quyền xuất phát từ luật lệ. Quyền làm cha mẹ đến từ kỷ cương gia đình. Nếu gia đình thiếu kỷ cương, sống vô kỷ luật  thì uy quyền của cha mẹ cũng theo đó sụp đổ. Cũng có nhiều trường hợp cha mẹ không dám thực hiện kỷ luật với con vì:
a.   Muốn giữ hình ảnh đẹp của người cha nhân từ, người mẹ hiền dịu. Nghĩ như thế, cha mẹ đã tự xoá hình ảnh nhân từ và hiền dịu của mình, vì thiếu con mắt kỷ luật, con cái không nhận ra những đức tính, giá trị này.
b.   Cha mẹ có những lỗi lầm bản thân nào đó, nên muốn lấp liếm, tránh né bằng cách không dám thực thi kỷ luật đối với con cái. Sợ con đến nỗi không dám xử dụng quyền làm cha mẹ để giáo dục thì không gì nguy hại hơn cho con cái. Những cha mẹ này đã quên một điều là không có cha mẹ nào trên đời này là cha mẹ hoàn hảo, và cũng chẳng con cái nào đòi cha mẹ phải hoàn hảo. Chúng chỉ đòi cha mẹ yêu thương và giúp chúng trưỏng thành, nên người.
c.    Đánh mất ý thức về vai trò làm cha mẹ: Đây là hâu qủa tất yếu của chủ nghiã ích kỷ, hưởng thụ đang phá hoại các gia đình. Người ta ngày càng đọc được những bài báo viết về những người mẹ bán con lấy tiền, những người cha lạm dụng tình dục và nhiều cảnh bạo hành đáng nguyền rủa khác của cha mẹ trên con cái.

Tóm lại, bản chất của kỷ luật là hướng dẫn, bảo vệ, huấn luyện, thăng tiến con người. Một quân đội mạnh là một quân đội có kỷ luật. Kỷ luật làm quân đội mạnh là vì kỷ luật đã huấn luyện thành công những người lính trưỏng thành, có nhân cách, có dũng khí, có tinh thần. Đội quân mạnh do chiến sĩ mạnh. Không có những người lính can trường nhờ sống kỷ luật, không có những chiến sĩ qủa cảm, hy sinh vì được kỷ luật quân trường đào luyện làm sao có được quân đội hùng mạnh bảo vệ tổ quốc?  
Như thế, kỷ luật hoàn toàn khác với những phương tiện có tính không chế, đe doạ, trừng phạt, xiết chặt, bóp nát của chủ nghiã uy quyền thống trị. Kỷ luật không đi với chủ nghiã này, vì chủ nghiã “bạo lực” mới thực sự là vô kỷ luật, khi  sản sinh ra những lối sống thiếu nhân bản “chồng chúa vợ tôi”, những người cha dã man, phi nhân đánh con đến suốt đời mang thương tật, những người mẹ hành hạ con như tra tấn địch thù. Kỷ luật không đội trời chung với chủ nghiã bất nhân này khi trật tự nhân bản bị đảo ngược vì chính chủ nghiã ấy. Trái lại, kỷ luật tạo nên uy quyền cho cha mẹ, một thứ uy quyền nhân bản, uy quyền của tình yêu, có tình yêu làm nền tảng, có tình thương là động lực, có hạnh phúc của con làm mục tiêu, đích tới. Uy quyền của cha mẹ là khả năng giúp con sống kỷ luật để con trờ nên mạnh mẽ: mạnh mẽ trong tư duy, tình cảm, hành động. Và vì thế, kỷ luật hoàn toàn khác với chủ nghiã uy quyền thống trị với đa đoán của độc tài, gò bó, kềm kẹp của bạo lực làm tổn thương nhân vị.       

Ước mong tuổi thơ được gìn giữ, bảo vệ, thăng tiến nhờ kỷ luật gia đình, để những thế hệ tương lai có những đầu óc minh mẫn, những trái tim yêu thương, những đời sống quân bình xây dựng một xã hội nhân bản, hài hoà, bình an.  

THIÊN CHÚA LÀ NƠI CON ĐƯỢC NGHỈ NGƠI, BỒI DƯỠNG

Suy Niệm TIN MỪNG CHÚA NHẬT 14, Thường Niên, Năm A
Đức Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai đến, Đấng mà người Do Thái mường tượng như một vị vua uy nghi, quyền năng, oai phong lẫm liệt, bách chiến bách thắng ngự giá giữa đoàn quân, trước muôn dân cúi mình thần phục, và không ai đã nghĩ đến “Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến ấy” sẽ đến như một vị vua chiến thắng nhưng hiền hoà, hay chạnh lòng thương cảm những người bé mọn, và là nơi nương náu, chốn nghỉ ngơi cho những tâm hồn đau khổ, những thân xác rã rời vì vất vả, lao nhọc.
Ngay trong bài đọc thứ nhất, ngôn sứ Dacaria đã loan báo một Đức Vua “chính trực, toàn thắng, nhưng khiêm tốn ngồi trên lưng lừa con” (Dcr 9,9). Chính Ngài sẽ đem lại hoà bình cho muôn dân, muôn nước, và mọi người sẽ hân hoan reo mừng.
Đây là hoà bình của tình yêu, hoà bình được xây dựng trên tình yêu, hoà bình không tìm thấy từ “chiến mã, cung nỏ” của chiến tranh (x. Dcr 9,10), nhưng từ lòng nhân hậu dành cho những người “vô danh tiểu tốt, thấp cổ bé miệng”, từ trái tim biết chạnh lòng trước những con người túng thiếu, cực khổ, từ tâm hồn đồng cảm với những thân phận bị đàn áp, bỏ rơi, kỳ thị, khai trừ, vì ở những  con người bị xã hội lãng quên này, chân lý của Thiên Chúa đã được mặc khải, như Đức Giêsu đã qủa quyết trong lời cầu nguyện của Ngài với Chúa Cha: “Lậy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (Mt 11,25). Và điều quan trọng hơn cả là Ngài đã khẳng định: “Vâng lậy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Mt 11,26).
Đẹp ý Chúa Cha khi Tin Mừng “Thiên Chúa yêu thương” được loan báo cho người nghèo hèn, “Thiên Chúa giải thoát” được công bố cho người bị giam cầm, “Thiên Chúa cứu chữa” đến với người đau ốm, tật nguyền, và Tin Vui “Thiên Chúa thứ tha, ban ơn phúc” được lan toả giữa những người khao khát hạnh phúc thật (x. Lc 4,16-19). Và Đức Giêsu đã làm đẹp lòng Chúa Cha khi chu toàn sứ vụ giữa những người bé mọn cho đến giây phút cuối cùng trên Thánh Giá.
Thực vậy, Đức Giêsu là Đức Vua nhân hậu luôn quan tâm và yêu thương thần dân bé mọn, và sứ vụ Thiên Sai của Ngài luôn hướng đến những người nghèo khó, sầu khổ, cùng cực, bị vu khống, hàm oan, bị khinh khi, áp bức, những con người nhỏ bé có tâm hồn đơn sơ, trong sạch, khao khát công chính và kiên trì tìm kiếm Nước Trời như chính Ngài đã công bố trong Hiến Chương Nước Trời (x. Mt 5,1-12).
Và trên hành trình dương thế “đầy nước mắt”, Đức Vua nhân hậu Giêsu luôn có mặt, đồng hành để trở nên chốn nghỉ ngơi, nơi bồi dưỡng cho những ai “đang vất vả mang gánh nặng nề”, và bảo đảm: “Tâm hồn anh em sẽ được bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng”, với duy nhất một điều kiện, như đặc tính của người bé mọn được Đức Giêsu yêu thương và mời gọi: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,28-30).  
Xin Đức Giêsu, Vua nhân hậu “hiền lành và khiêm nhường tận đáy lòng” ban cho chúng ta hạnh phúc được nghỉ ngơi bên Thánh Tâm Ngài.
Jorathe Nắng Tím

Thứ Sáu, 26 tháng 6, 2020

TẠI SAO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO ĐI THEO GIÁO PHÁI ? (5)

GIÁO HỘI CỦA ĐỨC GIÊSU
Khi lãnh nhận bí tích rửa tội, chúng ta gia nhập vào gia đình Hội Thánh, và được trở nên chi thể của Thân Thể Mầu Nhiệm Đức Giêsu là Hội Thánh của Ngài. Nói cách khác, qua bí tích thanh tẩy, người môn đệ của Đức Giêsu được tháp nhập vào Đức Giêsu để sống chính sự sống của Ngài. Vì thế, khao khát của người tín hữu là được sống đầy đủ trách nhiệm và quyền lợi của người con trong gia đình, được đóng góp tích cực vào sinh hoạt của gia đình Giáo Hội, nhất là tìm thấy ở Giáo Hội bầu khí hiệp nhất, hiệp thông của một gia đình Yêu Thương, không gian Bình An của một gia đình tràn đầy niềm Hy Vọng, và niềm vui của một gia đình tràn ngập Ánh Sáng.
Và nếu tất cả chúng ta đều mong ước được là những đứa con trong gia đình Giáo Hội này, thì người trẻ cũng không tìm kiếm gì hơn ngoài Yêu Thương, Hy Vọng và Ánh sáng ở gia đình Giáo Hội:
1.   Một Giáo Hội Yêu Thương:
Đức Giêsu kêu gọi chúng ta kết hợp với Ngài để làm thành Giáo Hội, làm đẹp mái ấm Giáo Hội, làm gia đình Giáo Hội ngày càng hạnh phúc hơn. Chính Ngài quy tụ và nối kết chúng ta bằng sự sống, sự chết và phục sinh của Ngài.
Do đó, Giáo Hội của Ngài phải là một gia đình yêu thương, bởi tình yêu đã làm nên gia đình Giáo Hội, nên sẽ không thể hiểu được, nếu Giáo Hội chủ trương phân biệt, phân chia, phân ly, phân cách; sẽ không thể chấp nhận được, nếu Giáo Hội tìm kiếm những gì trái nghịch với yêu thương, đi ngược đức ái, khi cổ xúy những đấu đá, tranh giành vì ích kỷ, lợi ích của cá nhân, phe nhóm, vùng miền. Trái lại, yêu thương phải là lẽ sống của Giáo Hội, vì Thiên Chúa là Tình Yêu, và Đức Giêsu đã vì yêu mà hiến thân cho Giáo Hội là hiền thê yêu dấu của Ngài. Cũng chính vì Tình Yêu là lẽ sống của Giáo Hội, là dấu chỉ duy nhất của những người thuộc về Đức Giêsu, như Đức Giêsu đã qủa quyết: Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy là chúng con yêu thương nhau (Ga 13,35), nên thiếu tình yêu, Giáo Hội không còn là Giáo Hội như lòng mong ước của Đức Giêsu, Đấng sáng lập và là Đầu của Thân Thể Giáo Hội, và như thế sẽ không thuyết phục được ai, nhưng sẽ làm thối chí, nản lòng nhiều người, mà người trẻ là thành phần nhạy cảm dễ bỏ cuộc hơn cả.  
Thực vậy, sẽ không thể có hiệp nhất, hiệp thông giữa các chi thể trong Thân Thể Giáo Hội, nếu thiếu Tình Yêu, bởi chỉ Tình Yêu mới đủ khả năng liên kết, quy tụ, biến đổi chúng ta nên một trong Thiên Chúa và hiệp thông với nhau trong Giáo Hội của Ngài.
2.   Một Giáo Hội Hy Vọng:
Giáo Hội là đoàn thể những người đi theo Đức Giêsu và cùng nhau bước đi trên hành trình đức tin giữa nhân loại. Đức Giêsu đã gọi chúng ta để làm thành một dân của niềm hy vọng và ban Lời tràn đầy hy vọng của Ngài, để trong bất cứ hoàn cảnh, tình huống dù khó khăn, đen tối, ngao ngán, chán chường đến đâu, niềm hy vọng cũng không bao giờ phai nhạt, lịm tắt trong gia đình Giáo Hội.
Khi xin Chúa Cha ban Chúa Thánh Thần cho Giáo Hội, Đức Giêsu mặc khải cho chúng ta biết Giáo Hội là dân thánh của niềm Hy Vọng, vì Giáo Hội luôn bước đi dưới ơn của Chúa Thánh Thần, ơn dành cho những ai tin tưởng vào Lời Hứa cứu độ của Thiên Chúa.
3.   Một Giáo Hội  Ánh Sáng:
Gia đình Giáo Hội không chỉ đem đến cho con cái tình yêu thương, niềm hy vọng, mà còn ánh sáng hướng dẫn.   
Trong Giáo Hội, người tín hữu tìm được ánh sáng soi đường, dẫn lối giữa đêm đen của thế gian. Lời Thiên Chúa chính là ánh sáng, là ngọn hải đăng chỉ đường. Với Lời Thiên Chúa, Giáo Hội không để con cái phải lầm lũi trong bóng tối của thần dữ, nhưng với ánh sáng của Lời Chúa, Giáo Hội đưa con cái mình vào vùng ánh sáng cứu độ.
Thực vậy, khi người trẻ không gặp được ở Giáo Hội một gia đình yêu thương, hy vọng, ánh sáng, các bạn ấy sẽ không muốn ở lại vì bất ổn, bất an: bất an vì không có bình an là hoa trái của tình yêu, bất ổn vì lo lắng khi bóng tối bao phủ và ánh sáng hy vọng của Lời Hứa không le lói, chiếu dọi những bước chân còn e ngại, dò dẫm trên hành trình đức tin.
Đặt vấn đề đức tin của người trẻ, thiết tưởng chúng ta cũng không nên bỏ qua trách nhiệm của các bậc cha anh, bởi rất có thể, vì thiếu sót, lỗi lầm của chúng ta, mà người trẻ không cảm thấy được yêu thương trong gia đình giáo xứ; có thể vì lối sống đạo bao sân, độc quyền của người lớn mà bạn trẻ cảm thấy lạc lõng giữa cộng đoàn dân xứ; có thể vì tinh thần bảo thủ, thiếu tin tưởng người trẻ, mà các bạn trẻ của chúng ta thấy mình vô dụng, vô ích, vô tích sự trong sinh hoạt của gia đình Giáo Hội. Và tất cả những tình cảm tiêu cực ấy sẽ làm hao mòn nhiệt huyết dấn thân, cạn kiệt tình yêu quên mình, và chùn chân người môn đệ trẻ trên đường đi theo Đức Giêsu cùng với Giáo Hội của Ngài.
Ước gì người trẻ trong gia đình Giáo Hội ngày càng được yêu thương, tín nhiệm, trao trọng trách. Để được như vậy, mỗi người chúng ta cần ý thức bổn phận xây dựng Giáo Hội của mình để mỗi ngày Giáo Hội trở thành một gia đình yêu thương nhiều hơn, gia đình hy vọng nhiều hơn, gia đình ngợp tràn ánh sáng Lời Thiên Chúa, nhờ ơn thông hiệp và phù trợ của Chúa Thánh Thần là Tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con.    
Jorathe Nắng Tím

Thứ Năm, 25 tháng 6, 2020

BÉ HAY HỎI LUNG TUNG…


Cha mẹ nào cũng có kinh nghiệm mệt mỏi với những câu hỏi “cắc cớ, chết người” của con cái. Bé có thể hỏi: “Mẹ ơi, sao con không có cu như ba?” trước mặt mấy người khách của mẹ mà không biết mặt mẹ đỏ bừng như gấc. Bé cũng có thể hỏi những câu mà ba mẹ ngẩn ngơ vì bị bất ngờ trước “sức nặng” của vấn đề: “Mẹ ơi, sau này con có phải chết không?”.
Tuổi thơ là tuổi khám phá những gì trước mặt, là tuổi tìm hiểu các mối tương quan: tương quan với đồ vật, tương quan với thú vật, tương quan với thiên nhiên vạn vật, tương quan với mọi người chung quanh. Vì thế, ở tuổi này, điều gì cũng hay, cũng mới lạ với em và em muốn biết hết. Khi đặt câu hỏi, em muốn  bắc nhịp cầu khám phá, và làm cuộc mạo hiểm vào thế giới bên ngoài.
Em hỏi bất cứ ai, bất cứ lúc nào khi em thấy một sự vật, một hiện tượng em cần biết. Thấy bác thợ điện đang sửa đèn, em hỏi: “Tại sao bóng đèn sáng khi bật công tắc?”. Thấy người ăn xin, em hỏi : “Tại sao xin tiền và em có thể đi xin tiền như ông già ấy không?”. Thấy mẹ ngủ chung giường với ba, em hỏi: “Tại sao em không được ngủ chung với mẹ?” Thấy anh chị học bài muộn, em thắc mắc: “Tại sao em không được thức khuya?”. Thấy ba ở nhà, bé hỏi: “Tại sao ba không đi làm? Tại sao ba mất việc?”. Và liên tục em hỏi ba mẹ, anh chị hàng trăm câu hỏi “đến mệt người”.
Em bé 3, 4 tuổi hay đặt những câu hỏi về giới tính và về đời sống riêng tư của cha mẹ. Những câu hỏi như: “Tại sao con không có chim?” “Mẹ đẻ con ở đâu?” “Sao ba cứ hay ôm mẹ?” “Sao mẹ nhớ ba?” là những câu các bé thường hỏi mẹ. Sở dĩ quanh quẩn với các đề đề tài này, vì thế giới tuổi thơ của bé còn nhỏ lắm, mới chỉ có bé và cha mẹ, gia đình thôi…
Lớn hơn một chút, bé sẽ hỏi về mọi chuyện, kể cả chuyện chết chóc… khi bé thấy có người chết hay thấy đám tang, người khóc trong xóm, trên tivi.
Khi bị em bé “chất vấn”, cha mẹ thường có nhiều thái độ khác nhau. Có người cha bực bội khi con hỏi đến câu thứ ba và tìm cách bỏ đi. Có người mẹ nổi sùng ngay khi con bắt đầu câu hỏi thứ nhất, nếu bà đang bận nấu ăn hay đang vội đi làm. Có người lững lờ trả lời cho qua chuyện. Cũng có người làm   em “cụt hứng” bằng quát mắng “cả vú lấp miệng em”, cấm em “không được hỏi linh tinh”. 
Cả bốn phản ứng trên đều sai và đáng trách. Sai vì người lớn đã chặn đứng khao khát hiểu biết của em. Đáng trách vì người lớn đã không lương thiện, nhưng lười biếng và dùng bạo lực để bắt em phải dừng lại trên đường tìm sự thật. Người lớn đã lộ cho em thấy cái bất lực của người lớn và  việc xử dụng quyền lực không đúng chỗ của họ. Từ đó, em không còn tin tưởng và mất hứng thú để được cùng người lớn đồng hành trên hành trình truy tìm sự thật. Một cách nào đó, ta có thể nói: người lớn đã làm em thất vọng .
Giáo dục đòi đồng hành và đồng hành đòi hiện diện. Trả lời câu hỏi của con là cơ hội hiện diện. Đó là những dịp tốt để cha mẹ cùng đi với con trên đường tìm sự thật, sự thật không bị áp đặt nhưng sự thật được chính con tìm ra với sự trợ giúp, hướng dẫn cần thiết của cha mẹ. Còn cơ hội nào tuyệt vời hơn là được đi vào đối thoại với con khi con hỏi? Còn phương tiện nào hữu hiệu hơn để soi sáng tâm trí còn non nớt của con khi cắt nghiã cho con những thắc mắc về con người, vạn vật, cuộc đời? Không trả lời hay trả lời cho qua chuyện là đóng mọi cánh cửa vào kho tàng kiến thức và chặt đứt phương tiện tìm tòi, giao lưu với đời sống của con. Cha mẹ khi đó đã tự đào nhiệm khỏi bổn phận làm người đồng hành bằng từ khước sự có mặt của mình trên đường giúp con  tìm sự thật.        
Ở đây, ta cần lưu ý đến hai nguyên tắc căn bản khi trả lời các câu hỏi tạm được gọi là “linh tinh, lang tang” nhưng không thể coi thường của con cái:
a.   Tuyệt đối không nói dối cho qua chuyện:
Sự thật là nguyên tắc vàng trong câu trả lời của cha mẹ. Ngay cả những câu hỏi tế nhị, khó trả lời, cha mẹ cũng không được bóp méo, thay đổi sự thật. Có thể trình bầy sự thật một cách nhẹ nhàng, không gây sốc, nhưng bắt buộc sự thật vẫn phải là sự thật và là nội dung của câu trả lời.
Đừng quên: điều tệ hại đáng kinh tởm nhất trong tất cả các điều tệ hại là gian dối trong giáo dục. Vì thế, cha mẹ phải nằm lòng nguyên tắc vàng này và tuyệt đối không để bị cám dỗ nói dối con.  
b.  Luôn trong tư thế đối thoại:
Khi con hỏi, tức là con muốn đối thoại với cha mẹ. Khi con đặt vấn đề là lúc con chờ một giải đáp thoả đáng. Đối thoại với con là điều cha mẹ cần nắm lấy khi con đặt câu hỏi. Rất khó hình thành được đối thoại giữa cha mẹ - con cái, nên khi có dịp, cha mẹ phải lợi dụng ngay và tận dụng đúng mức để đi vào tâm tư và cuộc đời con cái hầu giúp chúng trưởng thành trong tư duy, tình cảm, hành động. Đừng sợ mất giờ vì con, vì thời giờ cho con là thời gian không bao giờ mất.

Ước mong  cha mẹ là những câu trả lời cho đời con thơ nhiều thắc mắc, nhưng không là cái máy “hỏi - thưa” vô hồn, tự động mà là trái tim của mẹ  “rung” với con trong từng câu hỏi, và là đầu cha “động não” cho tuổi thơ con dồi dào, sinh động. 

Thứ Ba, 23 tháng 6, 2020

Suy Niệm TIN MỪNG CHÚA NHẬT 13, Thường Niên, Năm A

Thiên Chúa là Đấng giầu có, và không bao giờ chịu thua lòng qủang đại của chúng ta, khi chúng ta rộng lòng với Ngài và với môn đệ của Ngài.
Cựu Ước đã nhiều lần mặc khải chân lý này, như trường hợp ngôn sứ Êlisa khi đi qua Sunâm đã được một phụ nữ giầu sang niềm nở tiếp đón, và “giữ lại dùng bữa… Bà còn nói với chồng làm cho ngôn sứ một phòng đầy đủ tiện nghi để khi ngôn sứ ghé đến sẽ có chỗ nghỉ ngơi” (x. 2 V 4,8-10). Nhưng tội nghiệp “Bà ấy không có con trai và chồng thì đã già”. Và ngôn sứ Êlisa đã thưởng công cho lòng tốt của bà bằng xin Chúa ban cho bà một con trai. “Qủa nhiên, bà ấy có thai, và năm sau, vào thời kỳ mà ông Êlisa đã nói thì bà sinh con trai” (2 V 4,17).
Thực vậy, đối với Thiên Chúa, bất cứ một ý nghĩ, ước muốn, thái độ, hành động yêu thương, qủang đại nào của chúng ta, dù nhỏ bé đến đâu cũng đều qúy giá, đáng được khen thưởng vì mang giá trị đời đời, bởi không có gì bị quên đi, bị bỏ qua bởi Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự tận sâu thẳm tâm hồn mỗi người, và đánh giá mọi chi tiết theo mức độ của tình yêu, như câu chuyện bà goá túng thiếu đã bỏ vào thùng dâng cúng của Đền thờ hai đồng xu bé nhỏ, và bà đã được Đức Giêsu tuyên dương: “Thầy bảo thật anh em: bà góa này đã bỏ vào nhiều hơn ai hết. Qủa vậy, tất cả những người kia đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ, mà bỏ vào dâng cúng; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình, mà bỏ vào đó tất cả những gì bà có để nuôi sống mình” (Lc 21,3-4).
Ở đây, chúng ta được Thiên Chúa mặc khải thêm một chân lý khác nữa, đó là sự gắn bó thiết thân giữa Thiên Chúa và môn đệ của Ngài, thiết thân đến độ: “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy; và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy” (Mt 10,40). Như thế, giữa Chúa Cha, Đức Giêsu và môn đệ của Đức Giêsu có một sự hiệp nhất kỳ diệu.
Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Rôma đã cắt nghiã sự hiệp nhất thiết thân kỳ diệu giữa người tín hữu và Thiên Chúa: “Anh em không biết rằng: khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng đuợc mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cái chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6,3-4).
Qua lời dậy trên, thánh nhân đã khẳng định sự đọan tuyệt với đời sống cũ của người tín hữu khi tin vào Đức Giêsu và chấp nhận “coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa trong Đức Kitô Giêsu” (Rm 6,11).    
Và Tin Mừng Mátthêu cho chúng ta biết điều kiện phải có của người môn đệ, đòi hỏi phải được đáp ứng của người muốn đi theo và thuộc về Đức Giêsu: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai giữ lấy mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được” (Mt 10,38-39).
Xin Chuá cho chúng ta học tinh thần qủang đại của người đàn bà đã hiếu khách khi đón tiếp ngôn sứ Êlisa là người của Thiên Chúa, bằng tập chia sẻ, giúp đỡ đặc biệt các nhà truyền giáo là những người tận hiến cuộc đời để chuyên lo phụng sự Chúa và phục vụ Giáo Hội. Thực hiện việc chia sẻ quảng đại đó chính là sống từng ngày đòi hỏi của Tin Mừng, và đáp ứng điều kiện phải có của người muốn theo Đức Giêsu để “được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10), khi bỏ mình, vác thập giá trên con đường mà thế gian coi là ngu xuẩn, dại khờ, nhưng lại là đường khôn ngoan, đường dẫn đến sự sống đời đời, sự sống của Thiên Chúa.   
Jorathe Nắng Tím  

Chương 2: Ma quỷ là ai?

Trong chương thứ nhất, chúng ta đã đề cập đến sự hiện diện của ma quỷ, để phản biện lại một số người đã không tin có ma quỷ. Có nhiều lý do dẫn đến chọn lựa không tin có ma quỷ này.
Trước những thực tại thiêng liêng, vô hình, con người không thể nắm bắt, thấu hiểu dễ dàng. Phải có Đấng Thiêng Liêng, Đấng Vô Hình Con Thiên Chúa làm người mới mặc khải đầy đủ và chính xác những thực tại thiêng liêng ấy. Đấng ấy chính là Đức Giêsu, Đấng quả quyết với chúng ta: Có ma quỷ, khi Ngài chấp nhận để ma quỷ cám dỗ, khi Ngài nghiêm nghị quát mắng, ra lệnh, và xua đuổi chúng ra khỏi những người bị chúng khống chế, ám nhập. Chỉ có Ngài-Đức Giêsu, với uy quyền của Thiên Chúa mới bảo đảm tính xác thực về danh tính, lý lịch, hành tung của Satan, thủ lãnh các ma quỷ.
đây, dựa trên Mặc Khải của Đức Tin, chúng ta điểm mặt, gọi tên Satan, lật tẩy ý đồ gian ác, cũng như công việc tối tăm của chúng trong thế giới loài người.
Kinh thánh cho chúng ta biết đích xác ma quỷ và hoạt động của chúng. Dựa vào Kinh Thánh, một lần nữa chúng ta nhận diện “ông hoàng của thế gian”, “tên tố cáo, xảo quyệt”, “kẻ xúi giục, cám dỗ”
1. Đối với Thiên Chúa
Trước hết, ma quỷ là thụ tạo thiêng liêng được Thiên Chúa dựng nên. Thiên Chúa là Đấng Chủ Tạo đã tạo nên ba loài thụ tạo khác nhau: Loài thụ tạo thiêng liêng, không có thân xác là các thiên thần; loài thụ tạo thứ hai là thực vật, động vật và mọi thứ vật chất khác; loài tạo vật sau cùng có cả tinh thần lẫn vật chất, tức thân xác và linh hồn là con người.
Ma quỷ là thụ tạo thiêng liêng, chỉ có tinh thần được tạo dựng để phụng sự Thiên Chúa trên trời. Nơi ở của các vị là thiên đàng, trước ngai Thiên Chúa.
Ma quỷ là thiên thần, nhưng là thiên thần phản nghịch: nghĩa là đã kiêu căng muốn bằng Thiên Chúa, và nổi loạn chống Thiên Chúa. Thị kiến của Thánh Gioan đã mô tả cảnh nổi loạn của Luxiphe, Tổng lãnh Thiên thần đứng đầu phe phản loạn, cuộc giao chiến ác liệt giữa hai phe trung thành và phản nghịch. Tổng lãnh Thiên thần Micae lãnh đạo phe trung thành đã chỉ huy trận giao đấu này, còn Luxiphe cùng bè lũ phản nghịch đã bị đánh bại và bị trục xuất khỏi thiên đàng (Kh 12,7-12).
Từ nay, thiên thần phản nghịch trở thành ma quỷ, và Satan là tên của thủ lãnh ma quỷ. Hắn còn có những tên khác ít được nhắc tới như Beelzebub, Luxiphe, Asmodeus, Meridian, Zebulun…
Địa chỉ mới của các thiên thần phản nghịch tức ma quỷ từ nay là hỏa ngục, ở đó chỉ có lửa ghen ghét, hận thù, bất hạnh, không chút tình yêu thương, nhưng ngợp tiếng “khóc lóc, nghiến răng” (Mt 13,50). Nhưng ngoài địa chỉ thường trú là hỏa ngục, ma quỷ còn những địa chỉ tạm trú, vãng lai khác, đó là nơi ở của con người, tâm hồn của con người, xã hội, thế giới con người sống. Điều này có nghĩa ma quỷ còn được phép rong ruổi phá phách, cám dỗ con người trong một thời gian nữa cho đến ngày trở lại của Đức Giêsu, như sách Khải huyền đã viết về Satan và hoạt động của nó trong thế giới loài người: “Nó được ban cho quyền hành động trong vòng bốn mươi hai tháng”. Trong suốt thời gian được hoạt động này, Satan sẽ phạm thượng đến Thiên Chúa, xúc phạm đến các thánh, “giao chiến với dân thánh và thắng họ, và còn được ban quyền trên mọi chi tộc, mọi nước, mọi ngôn ngữ và mọi dân” (Kh 13,5-7).
Đây là một điều chúng ta cần quan tâm để luôn cảnh tỉnh trước sự hiện diện và công việc của ma quỷ, bởi chính Thiên Chúa đã cho phép ma quỷ còn được tồn tại và hoạt động trong thế giới loài người. Đức Giêsu đã khẳng định với các tông đồ: “Hãy tỉnh thức cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ” (Lc 22,39), vì ma quỷ sàng chúng con như sàng gạo”. Cám dỗ đây là cám dỗ của ma quỷ, vì chúng không mỏi mệt rảo quanh mọi nơi con người có mặt để mồi chài, lôi kéo, dụ dỗ con người làm điều gian ác, chống lại Thiên Chúa. Bản án đời đời của ma quỷ tuy đã được công bố, nhưng thời gian thi hành án chưa hoàn toàn kết thúc, nên quyền lực tối tăm của chúng trên trần gian vẫn còn hiệu lực, và chúng vẫn còn khả thể quấy nhiễu, phá hoại công trình của Thiên Chúa và làm hư hỏng con người.
Khi các thượng tế, lãnh binh Đền Thờ và kỳ mục đến bắt Ngài, Đức Giêsu đã nói với họ: “Ngày ngày tôi ở giữa các ông trong Đền Thờ, mà sao các ông không tra tay bắt. Nhưng đây là giờ của các ông, là thời của quyền lực tối tăm” (Lc 22,53). Ngài có ý nói quyền lực của ma quỷ đang thống trị tâm hồn những người đi lùng bắt, truy diệt Ngài.
Trong giây phút bi hùng nhất trước khi bị bắt, Đức Giêsu đã cầu nguyện cho các môn đệ. Bằng giọng khẩn khoản, thiết tha, Ngài đã xin Chúa Cha “gìn giữ họ khỏi ác thần”, tức là gìn giữ họ khỏi rơi vào cạm bẫy, nanh vuốt của ma quỷ, vì họ là chứng nhân được sai đi làm chứng về Ngài, là đối tượng mà Satan và bè lũ cần phải mau chóng tiêu diệt. Trong bữa tiệc chia tay, Giuđa, người môn đệ phản bội cũng đã được nhắc đến như một người đã tự nguyện trao linh hồn cho ma quỷ: “Rồi Người chấm một miếng bánh, trao cho Giuđa, con ông Ítcariốt. Ông vừa ăn xong miếng bánh, thì Satan liền nhập vào ông” (Ga 13,26-27).
Sở dĩ ma quỷ vận dụng mọi khả năng để chống phá Thiên Chúa, lôi kéo mọi người xúc phạm, phản nghịch Thiên Chúa như chúng đã xúc phạm, phản nghịch, vì chúng căm thù Thiên Chúa. Chúng căm thù vì bị Thiên Chúa trừng phạt khi chúng phản nghịch. Là đối thủ của Thiên Chúa, Đấng là Chân, Thiện, Mỹ, Tuyệt Đối, nên ma quỷ là Gian Dối, Xấu Xa, Ác Độc. Và như thế, Thiên Chúa là Tình Yêu ban Bình An, Hạnh Phúc; ma quỷ là Hận Thù đem lại chiến tranh, bất hoà, và đau thương, bất hạnh. Thiên Chúa là lòng thương xót, thứ tha; ma quỷ là căm thù, báo oán. Thiên Chúa là Niềm Vui, Hy Vọng; ma quỷ là sầu buồn, tuyệt vọng. Thiên Chúa là Sự Sống và Sự Sống Lại; ma quỷ là tử vong, và chết đời đời. Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ; ma quỷ là kẻ phá hoại, tiêu diệt. Thiên Chúa là Đấng chở che, bênh đỡ; ma quỷ là kẻ tố cáo, bức hại. Thiên Chúa tín trung; ma quỷ phản bội. Thiên Chúa, Chủ Tạo toàn năng; ma quỷ chỉ là thụ tạo giới hạn.
Là thụ tạo thiêng liêng, ma quỷ được Thiên Chúa ban quyền năng của một thụ tạo thiêng liêng, nhưng quyền năng ấy bị giới hạn trong phạm vi thụ tạo, vì trước hay sau khi phản nghịch, lúc còn là thiên thần phụng sự Thiên Chúa hay bây giờ thành ma quỷ chống phá Thiên Chúa, chúng vẫn luônvị thế thụ tạo trước Thiên Chúa. Chính vì kiêu căng muốn ngang hàng với Thiên Chúa, mà chúng đã mất hết ơn nghĩa của một thụ tạo luôn vâng phục Đấng Chủ tạo của mình.
Nhưng vì bản chất là thiên thần, một thụ tạo thiêng liêng, từng là hữu thể hoàn hảo được bàn tay Thiên Chúa tạo dựng, nên ma quỷ được Thiên Chúa phú ban cho trí tuệ, ý chí, tự do, và sáng kiến. Nay chúng bất trung, phản nghịch thì bản tính thiêng liêng với các quyền năng từ bản tính thiên thần ấy vẫn tồn tại, vì Thiên Chúa không bao giờ hủy bỏ bất cứ một tạo vật nào do tay Ngài đã tạo nên. Đây là mầu nhiệm cao sâu của Tình Yêu sáng tạo nơi Thiên Chúa, Đấng nâng niu và gìn giữ mọi thụ tạo của Ngài, và không hủy diệt chúng, kể cả khi chúng bất tuân, phản nghịch Ngài.
Ma quỷ cũng là thụ tạo, loài người cũng là thụ tạo. Cả hai đều có trí tuệ, ý chí tự do, tuy có khác nhau về mức độ. Cả hai đều được thương yêu, nhưng cả hai đều bất trung, bất phục tùng Thiên Chúa. Nhưng cả hai đều không bị hủy bỏ, hay bị xóa khỏi sổ sự sống, trái lại, cả hai vẫn duy trì bản tính, giữ lại khả năng vốn được Thiên Chúa ban của mình. Điển hình là tự do, con người dù sa ngã vẫn còn nguyên vẹn tự do của mình để chọn lựa thiện ác. Ma quỷ cũng vẫn tồn tại trong tự do của chúng, chúng vẫn tiếp tục bị phán xét về những việc làm gian ác của chúng, bởi Chúa tạo nên thiên thần và loài người có tự do. Ngài không bao giờ loại bỏ các tạo vật của Ngài ngay cả khi chúng trở nên hư hỏng, nhưng Ngài thưởng công cho mỗi người theo công trạng của họ, vì mỗi người, cũng như mỗi thiên thần đều bị xét xử theo những hành động của mình.
Như thế, ma quỷ có thể làm được những “điềm thiêng dấu lạ” để mồi chài con người: có thể thực hiện những việc phi thường để lôi cuốn con người: có thể tạo nên những việc cả thể, chói lòa vinh quang, ngập tràn hạnh phúc để lừa phỉnh con người, vì chúng còn được giữ quyền năng của thụ tạo thiêng liêng. Nhưng vì bản chất ma quỷ từ nay là xảo quyệt, gian ác, hận thù, bạo lực, nên bất cứ việc gì chúng làm, bất cứ điều gì chúng hứa ban, bất cứ công trình nào có bàn tay chúng can thiệp, đều quy về một mục đích duy nhất là chống phá Thiên Chúa, và làm hại con người.
Vì thế, sẽ không có thương yêu, bình an, hạnh phúc thật nơi chúng, và hậu quả của việc chúng làm, lời chúng hứa sẽ chỉ là tai họa, bất hạnh, diệt vong.
Tóm lại, ma quỷ là thụ tạo kiêu căng, phản nghịch đối với Thiên Chúa. Chúng căm thù Ngài và lôi kéo con người đi theo chúng chống lại Thiên Chúa. Nhưng vì là thụ tạo, ma quỷ luôn khiếp sợ, run rẩy trước Thiên Chúa và phải vâng lời Ngài. Chúng không bao giờ có thể ngang hàng với Thiên Chúa, và không được làm thiệt hại sự sống của con người, cũng như làm tổn thương những người thuộc về Thiên Chúa nếu không được Thiên Chúa cho phép, như trường hợp ông Gióp trong Cựu ước.
Vì thế, điều chúng ta đừng bao giờ quên: ma quỷ không là đối thủ ngang hàng với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Đấng đã dựng nên ma quỷ, mà tiền thân của chúng là thiên thần phụng sự Ngài. Chúng căm thù Thiên Chúa bằng cách cám dỗ con cái của Thiên Chúa là loài người để mọi người theo chúng phản nghịch Thiên Chúa. Tuy vậy, sức mạnh của Thiên Chúa luôn chở che những ai trung tín với Ngài, và ma quỷ phải cúi mình, quỳ gối khi nghe tên Đức Giêsu, Thiên Chúa, Đấng đã đến để phá vỡ vương quốc của ma quỷ, cắt gỡ xích xiềng nô lệ cho những ai bị ma quỷ trói buộc, và giải phóng nhân loại khỏi ách thống trị của Satan. Qua sự chết và phục sinh, Đức Giêsu đã hoàn toàn chiến thắng ma quỷ, và đập tan mọi công trình tăm tối, tội lỗi của chúng trên địa cầu.

2. Ma quỷ và con người

Cách tốt nhất để nhận diện ma quỷ là đặt nó trong tương quan với Thiên Chúa, với con người, và với chính nó, bởi ma quỷ sẽ khó giấu được tông tích, lý lịch, thành tích của mình, điều mà ma quỷ luôn đặt lên hàng ưu tiên.
Với Thiên Chúa, ma quỷ là thụ tạo phản nghịch, nay trở thành thù địch vì căm tức, thì với con người, ma quỷ là tên nói láo, phỉnh gạt, gian ác. Chúng ghen ghét con người, vì con người được Thiên Chúa yêu thương. Chúng càng phẫn uất, điên cuồng ghen tuông với con người, vì con người đã sa ngã khi nghe chúng dụ dỗ nay lại được Thiên Chúa xót thương, cứu độ. Như thế, đối với loài người, ma quỷ là:

a. Đứa ghen tuông
Ma quỷ ghen tức với con người vì con người được Thiên Chúa cứu độ. Nó muốn mọi người cũng kiêu căng, phản nghịch và cùng chịu trừng phạt như chúng. Hỏa ngục, nơi giam cầm chúng cũng phải là nơi con người bị trừng phạt.
Ngay từ khi nguyên tổ loài người phạm tội, Thiên Chúa đã thương xót và hứa ơn cứu độ. Chính vì Lời Hứa này mà ma quỷ điên cuồng “nổi giận với Người Phụ Nữ và đi giao chiến với những người còn lại trong dòng dõi bà, là những người tuân theo các giới răn của Thiên Chúa và giữ lời chứng của Đức Giêsu” (Kh 12,17). Người Nữ ấy, tức Đức Maria “mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12,1).

b. Tên xảo quyệt
Hình ảnh được sách Sáng thế dùng để chỉ Satan trong trình thuật sa ngã của nguyên tổ là con rắn: “Rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi giống vật ngoài đồng” (St 3,1). Được mệnh danh là tên xảo quyệt, ma quỷ khôn khéo lừa phỉnh con người, ngon ngọt với con người để đưa đẩy con người đi vào hủy diệt. Evà cũng vì thích ngon ngọt nên mới sập bẫy Satan khi trái lệnh Thiên Chúa, đưa tay hái trái Thiên Chúa cấm.
Vì gian xảo, nên ở ma quỷ không thể có sự thật, chân thành, tín trung.

c. Đứa lì lợm, chầy cối, trơ trẽn
Ma quỷ là khách không mời cũng đến, đến rồi không đi, có đi rồi cũng tìm cách trở lại và lì lợm ở mãi. Tâm hồn “trống vắng” Thiên Chúa, “trống trải” ơn Chúa, “trống rỗng” yêu thương là nơi ở lý tưởng của ma quỷ. Chúng rình rập và tìm cơ hội để đột nhập, chiếm đóng các linh hồn.

Tin mừng Mátthêu ghi lại: “Khi thần ô uế xuất khỏi một người, thì nó đi rảo qua những nơi khô cháy, tìm chốn nghỉ ngơi mà tìm không ra. Bấy giờ nó nói: “Ta sẽ trở về nhà ta, nơi ta đã bỏ đi”. Khi đến nơi, nó thấy nhà để trống, lại được quét tước, trang hoàng hẳn hoi. Nó liền đi kéo thêm bảy thần khác dữ hơn nó, và chúng vào ở đó. Rốt cuộc tình trạng người đó còn tệ hơn trước” (Mt 22,43-45).

d. Tên độc ác
Ngoài xảo quyệt, nham hiểm, Satan còn độc ác, và chỉ tìm hành hạ con người, cốt để con người phải đau khổ, bất hạnh. Ở ma quỷ, người ta không thể tìm được yêu thương, bình an, nhân hậu, bao dung, trắc ẩn, vì bản chất của ma quỷ là ác độc, và việc làm của chúng luôn tàn nhẫn.
Những người bị quỷ ám đều chịu những đau khổ tinh thần và thể lý, và chẳng ai hạnh phúc, bình an bao giờ khi bị ma quỷ khống chế. Tin mừng Máccô vẽ lên hoàn cảnh khốn khổ, bị đọa đày của người bị quỷ ám: Đức Giêsu “vừa ra khỏi thuyền, thì từ đám mồ mả có một người bị thần ô uế ám liền ra đón Ngài. Anh này thường sống trong đám mồ mả, và không ai có thể trói anh ta lại được, dầu phải dùng đến cả xiềng xích. Thật vậy, nhiều lần anh bị gông cùm và xiềng xích, nhưng anh đã bẻ gẫy xiềng xích và đập tan gông cùm. Và không ai có thể kiềm chế anh được. Suốt đêm ngày, anh ta cứ ở trong đám mồ mả và trên núi đồi, tru tréo và lấy đá đập vào mình” (Mc 5,2-5).
Thánh Máccô kể tiếp: “Khi Đức Giêsu và ba môn đệ trở lại với các môn đệ khác, thì thấy một đám người rất đông đang vây quanh các ông, và các kinh sư tranh luận với các ông. Thấy Đức Giêsu, lập tức tất cả đám đông kinh ngạc. Họ chạy lại chào Người. Người hỏi các môn đệ: “Anh em tranh luận gì với họ thế?” Một người trong đám đông trả lời: “Thưa Thầy, tôi đã đem con trai tôi lại cùng Thầy; cháu bị quỷ câm ám. Bất cứ ở đâu, hễ quỷ nhập vào là vật cháu xuống đất. Cháu sùi bọt mép, nghiến răng, cứng đờ người ra…” (Mc 9,14-18). “Vừa thấy Người, quỷ liền lay nó thật mạnh, nó ngã xuống đất, lăn lộn, sùi cả bọt mép. Người hỏi cha nó: “Cháu bị như thế từ bao lâu rồi?”. Ông ấy đáp: “Thưa từ thưở bé. Nhiều khi quỷ xô nó vào lửa, hoặc đẩy xuống nước cho nó chết”… Khi thấy đám đông tuôn đến, Đức Giêsu quát mắng tên quỷ: “Quỷ câm điếc kia, Ta truyền cho ngươi: ra khỏi đứa bé và không được nhập vào nó nữa!”. Quỷ thét lên, lay nó thật mạnh, rồi ra khỏi” (Mc 9,20-26).

Thật tội nghiệp người bị ma quỷ khống chế. Satan đã biến người bình thường, hiền hậu ra người bệ rạc, hung dữ; người tươm tất, sạch sẽ ra dơ dáy, bẩn thỉu; người khôn ngoan ra điên khùng; người công chính thành gian manh; người quảng đại ra keo kiệt; người đạo đức thành sa đọa, vô luân. Bởi bản chất là gian ác, độc địa, nên ma quỷ không thể làm điều tốt, việc thiện, hành vi đạo đức cho ai. Chính vì thế, tin ở lòng tốt, việc tốt của ma quỷ là sai lầm lớn hơn tất cả mọi sai lầm cộng lại. Ấy thế mà nhiều người đã chạy đến cầu cứu ma quỷ sự trợ giúp, vì lầm tưởng ma quỷ, hay chưa biết ma quỷ là ai. Chỉ khi tai ương ập đổ mà ma quỷ lạnh lùng trở mặt, nhiều người mới bẽ bàng vỡ lẽ.

e. Kẻ tố cáo
Sách Khải huyền cảnh giác mọi người: Satan là tên tố cáo, ngày đêm nó tố cáo chúng ta trước tòa Thiên Chúa (x. Kh 12,10)
Vì ghen tuông với hạnh phúc được yêu thương và cứu độ của con người, nên ma quỷ rình mò những sơ hở, yếu đuối của con người để tố cáo, làm nhục con người trước đám đông. Đó là lý do khi trừ quỷ, các linh mục hay bị ma quỷ vanh vách kể trước mặt nhiều người những chuyện kín đáo, riêng tư của ngài, với mục đích bôi bác, hạ nhục, làm mất uy tín. Vì tâm địa xấu xa, muốn kéo người khác chìm nghỉm trong bùn đen, nên lời tố cáo của ma quỷ không mang sự thật, nhưng thường là những vu oán bất nhân, bất công, bất chính.
Ma quỷ tố cáo vì không có lòng thương xót để bao che, bênh vực như Thiên Chúa: ma quỷ tố cáo, vì không có lòng nhân từ để bỏ qua, tha thứ như Thiên Chúa; ma quỷ tố cáo vì không có lòng chung thủy để kiên nhẫn chịu đựng thiếu sót của người khác với niềm hy vọng đổi mới như Thiên Chúa.
                 ma quỷ chỉ có ác tâm, ác ý, ác đức, ác nhân, ác khẩu, ác độc, ác ôn, ác quái, ác tà. Tất cả mọi ý nghĩ gian ác, mưu đồ gian ác, hành vi gian ác đều tập trung ở ma quỷ, vì bản chất của chúng là gian ác. Ở đây, gian ác không còn là tính nết hay tính cách, nhưng thuộc bản tính, là những gì không thay đổi được của một hữu thể.
Vì gian ác, nên ma quỷ làm hại con người, bằng đủ mọi phương tiện, cách thế, mà cách thế hữu hiệu hơn tất cả chính là cáo gian, tố bậy. Ở đây, ta hiểu tố bậy là tố không đúng, tố cáo người khác bằng quyền lực trong tay mình, tố cáo người khác mà không dựa trên công lý, nhưng lấy quyền lực để áp đảo, ép buộc, cưỡng chế phải nhận một tội không hề phạm. Cáo gian cũng được hiểu trong ý nghĩa này, khi công lý, sự thật hoàn toàn bị bóp chết, tống khứ, xóa bỏ, và chỉ còn lại sức mạnh phi nhân của kẻ tố cáo gian ác, độc địa.
Kinh thánh gọi ma quỷ là kẻ tố cáo, vì ma quỷ luôn lẻo mép tố cáo yếu đuối, sai phạm của con người với Thiên Chúa, và té tát đời tư tội lỗi với mọi người, vì chúng chỉ mong con người phải chết như chúng, phải bị truy diệt như chúng. Ma quỷ không có hạnh phúc quên hết lầm lỗi của người khác, như Thiên Chúa là người cha nhân từ đã chẳng nhớ gì tội lỗi, và những xúc phạm của đứa con hoang đàng trở về (Lc 15,11-30); ma quỷ cũng chẳng có niềm vui khi tội nhân được thanh tẩy, đổi mới, bởi mục tiêu duy nhất của ma quỷ là làm cho con người khổ sở, bất hạnh, diệt vong.
Tắt một lời, vì chỉ là hận thù, ma quỷ bất hạnh với chính mình, vì không biết “vui với ai mừng vui, khóc với ai đang khổ sầu”, nhưng đời đời chỉ sầu khổ, điên cuồng tuyệt vọng vì thấy con người được cứu độ, được đổi mới, được ở trong tình nghĩa với Thiên Chúa, và được sống hạnh phúc đời đời.
Như thế, với loài người, ma quỷ luôn ghen tuông, tức tối, rình rập và tìm mọi cách cám dỗ con người đi vào tội lỗi, vào con đường chết vì bất trung, bất nghĩa, bất tín, bất chính, bất công, bất hòa, bất kham đối với Thiên Chúa và đồng loại, để cùng bị trừng phạt trong hỏa ngục đời đời như chúng. Bởi vậy, ma quỷ không bao giờ có thể là bạn tốt của loài người, không bao giờ đem lại bất cứ một điều gì tích cực, tốt đẹp cho con người; không bao giờ xây dựng, vun xới, chở che, bênh đỡ con người; cũng không bao giờ cộng tác chân thành, thân thiện đồng hành với con người trên đường ngay nẻo chính, vì bản chất và lý do có mặt trong đời người của ma quỷ là gieo gian dối, ác độc, hận thù, bạo lực, sự dữ, và bất hạnh.

f. Tên cám dỗ dẻo miệng, ngon ngọt, quyến rũ
Ma quỷ nổi bật khả năng quyến rũ, cám dỗ, rủ rê loài người. Satan đã thành công với nguyên tổ. Nó cũng thành công với nhiều người. Chiến thuật cám dỗ của ma quỷ là luôn đánh vào ba điểm yếu của con người: muốn biết mọi sự, muốn được ngưỡng mộ, muốn có quyền trên người khác. Nói tóm lại, ma quỷ ve vãn “cái tôi tri thức”, ve vuốt “cái tôi vinh quang, hưởng thụ”, và vỗ về “cái tôi quyền lực”. Tất cả độc chiêu cám dỗ của ma quỷ đều nhắm “cái tôi kiêu căng, cái tôi quan trọng, cái tôi toàn năng, cái tôi thần thánh, vĩ đại”, và tập trung ở tham vọng độc tôn, độc quyền kín đáo có mặt trong mỗi người.



Đức Giêsu biết ma quỷ rất khéo cám dỗ và liên tục cám dỗ loài người, vì “Satan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo” (Lc 22,31) nên Người nhắc chúng ta cầu xin “đừng để sa chước cám dỗ” (Mt 6,13), và liên lỉ tỉnh thức cầu nguyện để không sa chước cám dỗ của Satan và bè lũ, vì chúng biết: “Tinh thần thì hăng hái, nhưng thân xác thì yếu đuối” (Lc 14,38).

3. Ma quỷ với chính mình
Ma quỷ là kẻ phản nghịch Thiên Chúa, đối thủ của loài người, nhưng cũng là hình phạt của chính mình. Ma quỷ đã được dựng nên là thiên thần thánh thiện để phụng sự Thiên Chúa là tình yêu, hạnh phúc, bình an, hoan lạc. Vì có tự do, ma quỷ đã kiêu căng muốn bằng Thiên Chúa, khi chối từ vị thế thụ tạo của mình, mà nuôi tham vọng bất chính trở thành chủ tạo, thay chỗ Thiên Chúa.
Thánh Irênê đã viết về ma quỷ. Chúng ta có thể tóm tắt ý của thánh nhân: Ma quỷ là tên bội giáo tiêu biểu và cũng là tên lừa đảo của vũ trụ. Hắn muốn lừa tất cả mọi người, bằng cách làm trí khôn con người trở nên ngu muội, tăm tối để tôn thờ hắn hơn tôn thờ Thiên Chúa. Các quyền lực của hắn có giới hạn, bởi vì hắn chỉ là kẻ rắp ranh chiếm quyền, cướp quyền của Thiên Chúa. Chính vì thế, hắn không thể bắt buộc con người phạm tội. Hắn chỉ có thể cám dỗ, tìm cách thuyết phục con người chống lại Thiên Chúa và tôn thờ chúng. Hắn là thiên thần đã mất hết ơn sủng vì hắn ghen tức với Thiên Chúa khi muốn tự tôn thờ mình. Hắn cũng ghen tức với nhân loại, bởi loài người là hình ảnh của Thiên Chúa. Vì ghen ghét loài người, hắn đã lẻn vào vườn địa đàng với ác tâm cám dỗ nguyên tổ loài người bất tuân lệnh Thiên Chúa. Sự cám dỗ của Satan. Tuy thế, sẽ chẳng có tác dụng gì trên con người, nếu Thiên Chúa đã không ban cho con người ý chí tự do để chọn lựa thiện-ác, xấu-tốt. Satan là một tên cám dỗ tài tình và ngoan cố, vì lòng ghen tức của hắn luôn cao độ và đốt cháy tâm can hắn, chỉ vì hắn không thể chịu được khi thấy con người được Thiên Chúa yêu thương.
Như thế, ma quỷ phải sống tình trạng bị trừng phạt liên lỉ. Lòng ghen tuông, hận thù, tức giận, căm phẫn, bạo lực là hình phạt đời đời của chúng. Chúng phải sống, nhưng sống xảo quyệt, hận thù, bất hạnh: Sống những gì nghịch lại bản tính thiên thần là thánh thiện, yêu thương, bình an, hạnh phúc. Sự trừng phạt nặng nề mà Satan phải chịu, đó là sống chính những điều Thiên Chúa ghét bỏ. Bất hạnh của Satan và bè lũ là nỗi nhớ về những đặc ân ngày xưa khi còn trung thành với Thiên Chúa, vì dù gì, ma quỷ cũng không bị lấy đi bản tính thiêng liêng của mình. Đây là nỗi đau vô cùng kinh khủng, mà ma quỷ phải đời đời gánh chịu.
Như thế, ma quỷ là chính hình phạt, là chính tai ương, sự dữ, đau khổ chúng đang gieo trên đất người, và khi gieo gian dối, bạo lực, chia rẽ, hận thù, bất hạnh, chúng gieo chính mình, bởi sự dữ, hình phạt là chính chúng.
Cái đau khổ, khốn nạn của ma quỷ chính là chúng vẫn có khả năng để phải cảm nhận tất cả nỗi kinh hoàng, khủng khiếp của hình phạt ấy. Hỏa ngục không chỉ là nơi ma quỷ hành hạ những người đi theo chúng, nhưng là chính hình phạt dành cho chúng, khi chúng cũng đau đớn, khốn khổ như những người bị chúng cám dỗ đi vào.
Sở dĩ bọn quỷ nài xin Đức Giêsu: “Nếu ông đuổi chúng tôi, thì xin sai chúng tôi nhập vào bầy heo” (Mt 8,31), khi Đức Giêsu xua đuổi chúng phải ra khỏi, hai người bị chúng ám, là vì ma quỷ sợ bị nhốt lại trong hỏa ngục. Với chúng, đi lang thang, quậy phá loài người trên trần gian vẫn đỡ khổ hơn bị nhốt kín trong hỏa ngục, dù trước sau gì, khi Đức Giêsu trở lại lần thứ hai, tất cả chúng sẽ bị xích chặt giam giữ đời đời trong hỏa ngục.
Nhận diện ma quỷ trong ba tương quan: Với Thiên Chúa, với loài người, và với chính chúng, là cách tốt nhất để thấy ma quỷ là kẻ phản nghịch, tên gian ác, và hình phạt đời đời của chính mình. Công việc nhận diện là công việc quan trọng đầu tiên phải thực hiện, mà nếu không làm, chúng ta sẽ rơi vào tình trạng “nửa tin nửa ngờ” là cơ hội thuận lợi cho ma quỷ len lỏi, lọt vào thống trị tâm hồn và đời sống chúng ta.