Hành
trình trông đợi Lời Hứa của Thiên Chúa không chỉ là những bước đi về phía trước,
nhưng còn là những bước trở về, trở lui, trở lại với Thiên Chúa, Đấng đã ban Lời
Hứa.
Ítraen
đã làm chứng điều này qua những năm tháng dài trong sa mạc trên đường trông đợi
vào Đất Hứa. Con đường dài nhiều vất vả, gian nan đã làm họ không luôn thẳng tiến,
nhưng do dự, nghi nan, bất mãn, nổi loạn, phản bội Thiên Chúa Giavê, Đấng đã đưa
họ lên từ miền đất nô lệ Ai Cập.
Sau
lần toàn dân cùng Aharon đúc bò vàng thay thế Thiên Chúa Giavê và lập bàn thờ
trước bò vàng “để dâng tiến những của lễ toàn thiêu và những lễ vật kỳ an” (Xh
32,6), Môsê đã không ngớt kêu gào dân hãy trở về với Thiên Chúa, ấn tượng nhất
là viễn tượng lưu đầy mà Môsê đã thẳng thắn cảnh báo dân, nếu họ từ bỏ Thiên Chúa
Giavê :
1.
Môsê đã nhận ra những dấu
chỉ về cuộc lưu đầy :
Môsê
biết rõ “dân này là một dân cứng đầu cứng cổ”, nên đã không ngại lên tiếng cảnh
cáo : “Giữa anh em, đừng có người nào, nam hay nữ, đừng có dòng họ hay chi
tộc nào nào mà hôm nay trở lòng, trở mặt với Chúa, Thiên Chúa chúng ta, mà đi
phụng thờ các thần của những dân tộc ấy. Giữa anh em, đừng có thứ rễ độc sinh
trái độc và qủa đắng. Nếu kẻ nào, khi nghe các lời thề nguyền này, lại tự chúc
phúc cho mình trong lòng và nói : Tôi sẽ được bình an, cho dù tôi cứ
sống theo lòng chai dạ đá của tôi ; như thể đất được tưới không khác gì đất
khô cằn ; nếu kẻ nào làm thế, thì Đức Chúa sẽ không muốn tha cho nó ;
bấy giờ cơn giận và lòng ghen tương của Đức Chúa sẽ bốc lên phạt người ấy… và Đức
Chúa sẽ xóa tên nó không còn dấu vết trong thiên hạ” (Đnl 29,17-19).
Và
những dấu chỉ của hình phạt sẽ là “những vết thương của miền đất này và những bệnh
tật Đức Chúa giáng xuống trên đó… Cả miền đất chỉ là diêm sinh, muối và lửa, không
ai gieo vãi, không chi nẩy chồi, không cọng cỏ nào mọc lên, giống như cảnh tàn
phá ở Xơđôm, Gômôra, Átma và Xơvô-gim, những thành mà Đức Chúa đã phá đổ trong
cơn thịnh nộ và lôi đình của Người” (Đnl 29,21-22).
Thực
vậy, hơn ai hết, Môsê thấy trước viễn tượng lưu đầy của dân, vì ông biết qúa rõ
những phản phúc của Ítraen, cũng như khuynh hướng phản bội Giavê của họ khi buông
thả “chung chạ” với dân ngoại ; cũng hơn ai hết, ông biết Thiên Chúa Giavê
là Thiên Chúa trung tín nhưng ghen tương. Ngài không chấp nhận dân Ngài trở mặt
chối bỏ Ngài và đi thờ ngẫu thần vô tri, vô giác.
Với
Thiên Chúa, chỉ có hai con đường : một là yêu mến Ngài, đi theo đường lối,
tuân giữ mệnh lệnh, thánh chỉ, quyết định của Ngài để được sống, được thêm đông
đúc, được chúc phúc trong miền đất Ngài hứa ban ; hai là thay mặt đổi lòng
và không vâng nghe, lại bị lôi cuốn và qùy lậy, phụng thờ các thần khác, để bị
diệt vong (x. Đnl 30,15-18). Ngay cả Môsê và Aharon cũng bị Thiên Chúa quở trách,
“bởi vì giữa con cái Ítraen, các ngươi đã không trung thành với Ta tại mạch nước
Mơriva ở Cađê, trong sa mạc Xin, và bởi vì các ngươi đã không biểu lộ sự thánh
thiện của Ta giữa con cái Ítraen, nên ngươi chỉ được thấy đất ấy từ xa, chứ không
được vào đất Ta ban cho con cái Ítraen” (Đnl 32,51-52).
Tóm
lại, điều làm Thiên Chúa thịnh nộ chính là không tin vào Ngài, không tin vào sự
trung tín, thánh thiện của Ngài, khi nghi ngờ Lời Ngài hứa, và không dám biểu dương
lòng trung tín với Ngài trước mặt muôn dân, như chính Ngài đã khiển trách hai
nhà lãnh đạo Môsê và Aharon : “Bởi vì các ngươi đã không tin vào Ta để biểu
dương sự thánh thiện của Ta trước mắt con cái Ítraen” (Ds 20,12).
2. Môsê
đã tha thiết kêu gọi Ítraen hãy liên lỉ trở về với Giavê Thiên Chúa :
Nếu
hành trình trông đợi đòi phải tiến lên không ngơi nghỉ, thì cùng lúc hành trình
trông đợi đòi liên lỷ trở về với Đấng ban Lời Hứa để hình thành con đường trông
đợi.
Thi
hành sứ vụ lãnh đạo dân Chúa trên đường về Đất Hứa, tức cùng với dân thực hiện
hành trình trông đợi Lời Hứa, Môsê thấm thiá ý nghiã của đòi hỏi phải liên lỉ
trở về với Thiên Chúa Giavê, dù trông đợi là phải đi tới, phải không ngừng tiến
lên phiá trước, bởi ông thâm tín rằng con đường tìm gặp Thiên Chúa, chính là
con đường trở về với Ngài, đường tiến lên hoàn thiện là đường trở lại với Thiên
Chúa giầu lòng xót thương, vì bất cứ con đường nào mang dấu chân người, bất cứ
bước chân đi tới, tiến lên nào của con người cũng đều mang dấu vết của phản bội,
dấu ấn của tội lỗi, dấu tích của sa ngã, yếu đuối, vì đường nào cũng cam go, bước
chân nào cũng vất vả, nên khi gặp hoàn cảnh khó khăn, trên những cây số cheo
leo, hiểm trở, người ta thường đối phó bằng tìm cách rẽ sang một con đường “dễ
dãi, buông thả, an ủi” khác, mà không còn trung thành đi trên con đường trông đợi
Lời Hứa nữa. Điều này qúa tự nhiên, vì trong mọi hoàn cảnh, bản năng sinh tồn
luôn xúi ta làm như thế, mà bản năng này lại luôn đi tìm thoả mãn những đam mê,
ham muốn xác thịt.
Do
đó, con đường trông đợi đòi người lữ hành phải trung tín với chọn lựa ban đầu,
như dân Chúa phải trung thành trên đường trông đợi Đất Hứa, chứ không nay thay đường,
mai đổi hướng, để rồi đi lạc vào vùng đất chết, vào miền đất bị nguyền rủa, chúc
dữ, thay vì đến miền đất “chảy sữa và mật”, đất mà Thiên Chúa đã dành sẵn cho dân
Ngài.
Khi
kêu gọi dân trung tín với Giao Ước Thiên Chúa đã ký kết với dân Ngài, Môsê đưa
ra cho dân bí quyết để sống lòng trung tín với Thiên Chúa Giavê, đó là liên lỉ
trở về với Ngài :
a.
Liên
lỉ trở về bằng lắng nghe :
Sở
dĩ Môsê đã luôn đi trên con đường Thiên Chúa muốn, vì ông luôn biết lắng nghe
Thiên Chúa. Ngay từ buổi đầu khi được Thiên Chúa gọi, ông đã luôn chăm chú lắng
nghe Ngài nói (x. Xh 3,1-13), và suốt cuộc đời với sứ vụ đưa dân ra khỏi Ai Cập
về Đất Hứa, Môsê đã không ngừng tìm kiếm Thiên Chúa để được lắng nghe Ngài chỉ
dậy, bảo ban.
Sách
Xuất Hành tường thuật chi tiết những lần Môsê một mình lên núi tìm Thiên Chúa để
thân thưa về chuyện dân Ngài, và lắng nghe Ngài dậy bảo những việc phải làm, những
lỗi lầm phải sửa, những chương trình phải thực hiện. Với Môsê, việc quan trọng
nhất của sứ vụ lãnh đạo là lắng nghe Thiên Chúa dậy để làm theo Thánh Ý Ngài.
b.
Liên
lỉ trở về bằng phụng thờ Thiên Chúa :
Điều
này không cần phải chứng minh, vì ai cũng biết sứ mạng giải phóng dân của Môsê
gắn liền với sứ mạng thờ phượng Thiên Chúa, như Thiên Chúa đã phán với ông khi
trao cho ông sứ mạng : “Ta sẽ ở với ngươi. Và đây là dấu chỉ cho ngươi biết
là Ta đã sai ngươi : khi ngươi đưa dân ra khỏi Ai Cập, các ngươi sẽ thờ phượng
Thiên Chúa trên núi này” (Xh 3,12).
Vì
thế, tội lớn nhất mà dân Chúa đã phạm chính là “trở lòng và không vâng nghe, lại
bị lôi cuốn và sụp xuống lậy các thần khác và phụng thờ chúng” (Đnl
30,17) ; tội nặng nhất mà Ítraen đã xúc phạm đến Giavê Thiên Chúa là đã đúc
tượng con bê, rồi “dựng bàn thờ trước tượng con bê”, rồi xì xụp bái lậy nó như đức
chúa của mình (x. Xh 32,1-6).
Chúng
ta có thể nói Giavê Thiên Chúa đã tuyển chọn Ítraen để làm thành một “dân thờ
phượng”. Môsê đã tiếp nối ơn gọi của Ápraham là tập hợp cho Chúa một dân thờ phượng.
Ngài bảo Môsê nói với Pharaô : “Hãy thả con Ta ra để nó đi thờ phượng Ta”
(Xh 4,23), bởi Ngài đã coi Ítraen là “một vương quốc tư tế, một dân thánh” của
Ngài (Xh 19,6).
Và
điều đã đúng trong Cựu Ước cũng đúng trong Tân Ước, khi ơn gọi của Giáo Hội và ơn
gọi thờ phưọng Chúa là một, bởi ngay từ khi thiết lập Giáo Hội, Đức Giêsu đã muốn
Giáo Hội là một cộng đoàn phụng tự, và Giao Ước mới đã được ký kết trong nghi lễ
Tạ Ơn cho cộng đoàn Mười Hai tông đồ, và Ngài truyền cho các ông : “Hãy làm
việc này mà nhớ đến Thầy” (Lc 22,19), để rồi bất cứ ở đâu có Giáo Hội, ở đó có “thờ
phượng, phụng tự”. Hình ảnh hai môn đệ trên đường Emmau đã nhận ra Đức Giêsu
khi “Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ” (Lc 24,30) và
sách Công Vụ các Tông Đồ ghi lại rất rõ sinh hoạt phụng tự của cộng đòan tín hữu
đầu tiên ở Giêrusalem : “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dậy,
luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không
ngừng” (Cv 2,42) đã nói lên ơn Gọi thờ phượng này của Giáo Hội.
Thực
vậy, con đường trông đợi cũng là con đường trở về với Thiên Chúa là Đấng chúng
ta trông đợi, bởi Ngài hiện diện với Lời Hứa đang thành hình, Ngài có mặt ở Lời
Hứa trên hành trình hy vọng trông đợi. Ngài ở với Lời Hứa để bảo đảm Lời Hứa,
Ngài đồng hành với Lời Hứa để thực hiện Lời Hứa, Ngài là chính Lời Hứa để Lời Hứa
mang ơn Cứu Độ, chuyển tải Tình Yêu của Ngài.
Trở
về với Thiên Chúa đang khi trông đợi Lời Hứa của Thiên Chúa, để niềm trông đợi
không lệch hướng, lạc đường ; trở lại với Thiên Chúa đang khi hy vọng ở Lời
Hứa được Thiên Chúa ủi an, thương xót, được làm con Thiên Chúa và diện kiến Ngài,
được Nước Trời làm gia nghiệp, được phần thưởng lớn lao dành sẵn trên trời.
Có
trở về, trở lại liên lỉ với Ngài trên đừơng trông đợi Lời Hứa, chúng ta mới không
bỏ Chúa khi túng bấn nghèo nàn, khi bị đời bạc đãi, hành hạ ; mới không nản
chí xa đường Hy Vọng, rẽ sang con đường khác khi chính người mình thương yêu, cưu
mang, xây dựng lại trở mặt vô ơn, lật kèo, phản bội; mới không thất vọng đốt
cháy niềm trông đợi khi bị thiên hạ khinh chê, “sỉ vả, vu khống đủ điều xấu xa”
(x. Mt 5,2-12).
Ước
gì không người Kitô hữu nào bỏ quên ơn gọi của mình là gắn bó, kết hợp với Chúa
trên hành trình trông đợi Lời Thiên Chúa hứa, để liên lỉ trở về bằng lắng nghe,
thờ phượng Ngài.
Jorathe
Nắng Tím
0 nhận xét:
Đăng nhận xét