Pages - Menu

Thứ Hai, 16 tháng 3, 2020

COVID-19 - DẤU CHỈ THỜI ĐẠI (3)

                                                       COVID-19  CÔ ĐƠN -  CÔ ĐỘC
Những ngày đầu Corona bùng phát ở Vũ Hán, người trung quốc đi đến đâu cũng bị tránh né, kỳ thị, và nhiều người không gọi tên dịch là Corona mà thay bằng “Chinois”, nghiã là “Dịch Trung Quốc”. Nhưng hôm nay thì dịch lan tràn khắp thế giới, và lệnh cách ly, cô lập, phong toả đạt đến mức độ quốc gia, toàn cầu: trong nước thì đóng cửa trường, quán xá, cơ sở kinh doanh, xí nghiệp; ngoài nước thì đóng biên giới, cửa khẩu, sân bay, bến tầu. Chính phủ các nước công bố những biện pháp rất nghiêm ngặt để chặn đứng sức bành trướng của dịch, bằng lệnh cấm tụ tập, hạn chế gặp gỡ, đi lại trên đường phải có giấy phép và bị kiểm tra thân nhiệt.
Corona trở thành nguyên nhân cô đơn, Covid-19 tạo nên cô độc, vì độ lây nhiễm qúa nhậy và mau chóng đã biến người này thành nguy cơ dịch bệnh của người kia, và ai cũng có thể là nhịp cầu truyền nhiễm, cơ hội lây lan cho cộng đồng, nguyên nhân tai ương của đồng loại. Chỉ cần một xiết tay, vỗ vai hay ôm hôn, virút Corona đã có thể nhập “hộ khẩu” người bên cạnh; chỉ cần một chớp nhoáng đụng chạm da thịt, người ta đã có thể biến cả mái ấm thành ổ dịch nguy hiểm, và cả nhà thành nạn nhân đáng thương của Covid-19.
Những ngày này, trên toàn thế giới, đài truyền hình quốc gia, cũng như các phương tiện truyền thông địa phương liên tục đưa tin từng giờ về những con số tăng vọt đến chóng mặt về số tử vong, người bị lây nhiễm, và người vô tâm đến mấy cũng phải chột dạ, hoang mang.
Giữa tâm dịch đang bùng nổ dữ dội, nhiều giả thuyết về nguồn gốc của dịch, những giả thuyết liên quan chính trị, quốc phòng, kinh tế được bàn nhiều. Ở đây, người viết chỉ mạo muội đề cập đến hậu qủa xã hội của đại dịch:
1.   Covid-19 cách ly người khỏi người:
Nỗi buồn lớn nhất của người bệnh là bị cách ly. Một mình trơ trọi, cô độc chiến đấu với căn bệnh làm người bị nhiễm dịch tủi thân, thất vọng, vì không người thân nâng đỡ, không bạn hữu an ủi. Mặc cảm bị bỏ rơi, cô lập khỏi gia đình, cộng đồng xâm chiếm tâm can vốn đã cô đơn, hiu qụanh làm người bệnh mất tinh thần, nản chí, rất dễ rơi vào tuyệt vọng. 
Và qủa thực, cuộc sống vốn sẵn cô đơn vì tâm hồn con người ngày càng khép chặt, thu nhỏ, hẹp hòi vì ích kỷ, thực dụng, nay Covid-19 tàn nhẫn “xuống tay” chặt đứt, cách ly, phân tán càng làm con người lạnh lùng, vô cảm, “xa mặt, cách lòng”.
Tâm lý học khẳng định: con người chịu ảnh hưởng nặng nề của thói quen, tập qúan, nên không nói với nhau một lần, tiếp theo là nhiều lần không nói sẽ làm con người quên dần nhu cầu đối thoại, trao đổi; cũng như một ngày không gặp, nhiều ngày, nhiều tháng không gặp sẽ làm con người mất thói quen giao lưu, và đến một  lúc, sẽ cho rằng gặp gỡ không còn cần thiết, và người ta sẽ cảm thấy hờ hững, ngượng ngùng, xa lạ khi phải gặp lại.
Nhìn vào những người bệnh bị cách ly trong các trung tâm, bệnh viện, họ rất cô đơn, cô độc. Không thân nhân thăm viếng đã đành, ngay cả nhân viên y tế cũng phải tuân thủ những biện pháp cách ly triệt để và nghiêm ngặt để giữ an toàn cho người bệnh đang được điều trị và cho chính y sĩ, bác sĩ, nhân viên phục vụ. Vì thế không ai có thể ngồi lâu chia sẻ, tâm sự, an ủi ai… nhưng ai nấy chỉ vắn tắt, ngắn ngọn, mau chóng để giữ khoảng cách an toàn sức khỏe, cũng là khoảng cách tạo nên cô đơn, cô độc…
2.   Covid-19 phá vỡ ước mơ xây dựng thế giới thành một đại gia đình nhân loại:
Không ai trong chúng ta có thể chối cãi cố gắng xây dựng thế giới thành một thôn làng thân thương, một đại gia đình nhân loại trong tinh thần tôn trọng và tương trợ từ nhiều thập kỷ qua, ở đó, các nước hợp tác bảo vệ, xây dựng, để cùng nhau thăng tiến hoà bình và hạnh phúc chung của toàn thể nhân loại.
Rất nhiều chương trình phát triển quốc tế, nhiều tổ chức thế giới nhắm mục đích nhân bản cao qúy đã ra đời và hoạt động hữu hiệu. Những ngân sách khổng lồ do đóng góp của những quốc gia phát triển trợ giúp các quốc gia đang gặp khó khăn là bằng chứng của tình “tương thân tương ái” giữa các thành viên của đại gia đình nhân loại này.
Nhưng bỗng Covid-19 xuất hiện phá vỡ ước mơ tuyệt vời và lý tưởng, khi các nước không còn có thể lo cho nhau, vì gánh nặng qúa lớn đang đè trên đất nước mình. Người ta chỉ còn lo cứu mình, mà không còn khả năng và tâm trí nghĩ đến nước láng diềng, anh em hàng xóm.
Nhìn lại hai cuộc thế chiến, nước Mỹ và nhiều quốc gia đồng mình đã đem quân trợ giúp cứu nguy, giải phóng những nước bị lâm nguy, nhưng ở khoảnh khắc tâm dịch Covid-19, cường quốc số một cũng chung số phận và phải lo giải quyết khó khăn do dịch bệnh đang hoành hành ngay trên đất nước mình, mặc dù không thiếu thiện chí muốn chia sẻ gánh nặng với các quốc gia khác. 
Thực vậy, con người rút vào cô đơn, cô độc có thể do ích kỷ, kiêu căng, nhưng cũng dễ rơi vào cô đơn, cô độc khi bị đẩy vào tình trạng “chỉ còn có thể lo cho mình”, mà không còn khả năng gánh vác, cũng như chia sẻ với người khác.
Đại dịch Covid-19 đang đẩy chúng ta rơi vào tình trạng thứ hai này, khi nhu cầu “sống còn” của chính mlình, thân nhân, gia đình xem ra không còn cho phép chúng ta lo cho những người ở vòng ngoài “quen biết”, hoặc vòng xa “thiên hạ”. Và với mức độ đe dọa ngày càng cao, biện pháp cách ly, cô lập ngày càng nghiêm ngặt, thời gian phong tỏa, giới nghiêm ngày càng kéo dài, tinh thần tương trợ sẽ có nguy cơ càng co thắt, rút ngắn lại, biến tâm hồn chúng ta thành lạnh lùng, xa lạ trước nhu cầu và thiếu thốn, khổ đau của người khác, quốc gia khác.
Bởi tinh thần cần được nuôi dưỡng, nên khi thiếu lương thực là tình người, tinh thần sẽ xuống dốc, chết lả. Bởi tâm hồn cần được huấn luyện, nên khi lòng nhân ái không còn là cơ hội cho tâm hồn tập tành, thể hiện, tâm hồn sẽ nghèo nàn, cằn cỗi, chết yểu. Bởi trái tim cần được định hướng, nên khi Bác Ái, Từ Bi không còn là đường cho trái tim lên đường, không còn là hành trình đến với tha nhânh, trái tim sẽ lười biếng, bỏ cuộc, đầu hàng, đào ngũ. Bởi lẽ sống cần được xây dựng liên lỷ trước các lựa chọn, nên khi lý tưởng Nhân Ái không còn là ngọn hải đăng soi đường, lẽ sống sẽ lạc đường, mất hướng.
Vâng, nguy cơ của đại dịch Covid-19 không chỉ là tai họa trước mắt, thấy được, nhưng tai họa tàn phá lâu dài, chính là khả năng biến trái tim mỗi người thành cứng cỏi, chai lì, do quen với cô đơn, cô độc, đến độ không còn cảm thấy cần sự có mặt của tha nhân, không cảm thấy nhu cầu “sống với” người khác, không tha thiết với cộng đồng chia sẻ, hợp tác. Vì lỡ quen với thời gian cô đơn, cô độc do Covid-19 cách ly, cô lập, người ta dễ nhập nhiễm tính dửng dưng, lạnh lùng, coi thường đời, bất cần đời.
Đó chính là lý do nhiều trẻ em có tuổi thơ bất hạnh, không được thương yêu đã không dễ trở thành người lớn tử tế, và đa phần tội phạm đã là những người có trái tim chai lì vì bị đời xử tệ; có tâm hồn băng giá vì đã qúa khổ đau; có cuộc sống gian ác, tăm tối, vì trước đó đã bị người đời bạc đãi, vùi giập.
Ý thức nguy cơ trước mắt, cũng như hậu qủa tinh thần Covid-19 có thể tiếp tục “ủ lại”, không chỉ mười bốn ngày, nhưng rất lâu dài, chúng ta cần đặt cho mình một hướng đi, một kỷ luật sống. Huớng sống ấy chính là con đường Bác Ái, Từ Bi mà đã là người, muốn làm người tử tế, là người có giá trị, ai cũng phải bước đi, ai cũng phải lên đường. Cũng thế, một kỷ luật sống phù hợp với con đường làm người, là đòi hỏi mà không người nào có thể bỏ qua, hay tự cho phép miễn trừ, đó là  Kỷ luật nuôi dưỡng trái tim nhân ái, biết chạnh lòng. 
Đừng nghĩ con người là thánh thần, cũng đừng ảo tưởng chúng ta là thánh nhân, nhưng phải khiêm tốn nhìn nhận: con người nhiều giới hạn và yếu đuối. Không chỉ giới hạn, yếu đuối ở sức vóc, thông minh, tài cán, mà yếu đuối cả tinh thần, giới hạn cả đạo đức. Tinh thần yếu đuối khi dễ sa đà vào điều xấu xa, tồi tệ hơn vươn cao, nâng tầm đến thánh thiện, cao qúy; đạo đức giới hạn nên nghĩ xấu hơn nghĩ tốt, làm tội hơn thực hiện điều tốt lành.
Vì thế, giữa tâm dịch Covid-19, nếu thiếu ý thức về giới hạn và yếu đuối, cũng như thiếu ý chí lựa chọn hướng sống Bác Ái, Từ Bi, và nghị lực tự huấn luyện bằng tuân thủ kỷ luật: nuôi dưỡng trái tim nhân ái, biết chạnh lòng, chúng ta sẽ dễ trở thành những nạn nhân đáng thương của Covid-19, những nạn nhân nếu không “cô đơn, cô độc” vì dương tính, nhiễm bệnh bây giờ, thì sau này cũng vô cảm, lạnh lùng, ích kỷ vì cạn kiệt lòng nhân. 
Jorathe Nắng Tím

ÁNH SÁNG


                 Suy Niệm TIN MỪNG CHÚA NHẬT 4 Mùa Chay, Năm A
Có thể nói : Tin Mừng Gioan là tin mừng Ánh Sáng, vì ngay phần đầu của Tin Mừng, thánh Gioan đã phấn khởi ca tụng Ánh Sáng : “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời… Và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Nhờ Ngôi Lời vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (Ga 1,1-4).
Ánh sáng ấy được Ngôi Lời đem đến cho nhân loại, cho từng người, như người mù từ lúc mới sinh đã được Đức Giêsu chữa lành để nhìn thấy ánh sáng (x. Ga 9).
Nhìn những người anh em khiếm thị, chúng ta thấy họ vẫn sống, nhưng sự sống của họ luôn bị đe đọa vì không thấy đường, mà đường đi đầy những chướng ngại có thể làm họ té ngã, bị thương và có thể chết, vì đập đầu vào đá, vào tường, rơi xuống hố rãnh, sông rạch, hoặc bước vào lửa đang cháy nóng ; anh em khiếm thị vẫn có thể sống, nhưng sống trong lo lắng vì không thấy những nguy hiểm rình rập quanh mình.
Vì thế, cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và người mù từ thuở mới sinh được Tin Mừng Gioan kể lại là một hẹn hò mang tính sinh tử. Trong cuộc hẹn này, Đức Giêsu đã đưa anh mù từ bóng tối của những đe doạ, hiểm nguy đưa đến sự chết vào vùng ánh sáng của sự sống được đảm bảo, bình an.        
Trong cuộc hẹn hò sinh tử này, chúng ta thấy cuộc chiến rất gay go giữa ánh sáng và bóng tối, giữa đức tin của người mù được sáng mắt và những người biệt phái tuy mắt sáng nhưng cứng lòng không đón nhận Đức Giêsu là “Ánh Sáng Muôn Dân” (Ga 8,12).
1.   Cuộc chiến trường kỳ và căng thẳng giữa Ánh Sáng và Bóng Tối :
Vừa rời khỏi Đền Thờ để tránh cơn mưa đá của những nngười Do Thái qúa khích, Đức Giêsu “nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh” (Ga 9,1) thường ngày ngồi ăn xin bên lề đường (x. Ga 9,8), và Ngài chữa anh khỏi đui mù, khi “nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta : “Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa. Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được” (Ga 9,6-7).
Chắc chắn anh hạnh phúc, vui mừng lắm, vì lần đầu tiên trong đời được nhìn thấy ánh sáng, được chiêm ngắm trời đất, thiên nhiên, con người, nhất là được nhìn thấy cha mẹ, anh chị em, họ hàng thân thuộc. Và cũng có nhiều người đã đến chung niềm vui với anh.
Nhưng bên cạnh những người đang vui với niềm vui được sáng mắt của anh, đã có những người như các ông Pharisêu đã không vui vì anh được chữa lành, đã không hài lòng vì anh được nhìn thấy, đã không bình an khi anh được Đức Giêsu làm phép lạ ban cho ánh sáng. Họ là những người đang bực tức, căm giận, chỉ vì anh được chữa lành, và được sáng mắt. Nhưng chính trong hoàn cảnh này, anh có dịp công khai tuyên xưng đức tin của anh vào Đức Giêsu, người đã cứu chữa anh ra khỏi bóng tối.
Trước nhóm Pharisêu hùng hổ vặn hỏi, và không ngớt đe đọa, anh luôn giữ một lập trường : kể lại chính xác những gì Đức Giêsu đã làm và đã nói với anh : “Người tên là Giêsu đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo : ‘Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa’. Tôi đã đi, đã rửa và tôi nhìn thấy” (Ga 9,11). Bị chất vấn : “Còn anh, anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh ?” Anh đáp : “Người là một vị Ngôn Sứ !” (Ga 9,17).
Những người Do Thái ghét Đức Giêsu còn mắng nhiếc anh thậm tệ và hạ uy tín của Đức Giêsu khi chụp mũ, lên án Ngài là người tội lỗi, cốt đế anh nghi ngờ, không tin Ngài là Đấng đến từ Thiên Chúa (x. Ga 9,24-33). Họ còn áp đảo tinh thần cha mẹ anh, bằng đe dọa : “trục xuất khỏi hội đường kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô” (Ga 9,22).  
Sau cùng, vì không chịu nổi tính bất khuất, lòng biết ơn và niềm tin sắt đá của anh, nhóm Pharisêu và những người Do Thái về phe họ đã vô cớ ra án cho anh : “Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư ?. Rồi họ trục xuất anh” (Ga 9,34).  
Đức Giêsu nghe nói họ đã trục xuất anh. Khi gặp lại anh, Người hỏi : “Anh có tin vào Con Người không ?” Anh đáp : “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin ?” Đức Giêsu trả lời : “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây”. Anh nói : “Thưa Ngài, tôi tin. Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người” (Ga 9,35-38).
Qủa thực, anh mù bẩm sinh được Đức Giêsu chữa lành đã trải qua nhiều thử thách gây ra bởi những người Biệt Phái ganh ghét Đức Giêsu, và quyết tâm trừ khử Ngài. Vừa được sáng mắt sau bao nhiêu năm mù lòa, anh tưởng sẽ được bình an, hạnh phúc với mắt sáng như mọi người, nào ngờ cả một thế lực tôn giáo tấn công anh, bắt anh phải phủ nhận phép lạ anh vừa nhận, ép anh phải từ chối hồng ân từ tay người có tên Giêsu, đối thủ số một của những người đang o ép, khống chế, mua chuộc, gài bẫy anh phải nói dối, cũng như ráo riết “mớm cung” để anh phải bóp méo, bức tử “sự thật” bằng không nhận đã được Đức Giêsu “trộn một chút bùn, xức vào mắt, rồi bảo : Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa”, nhất là không được to tiếng công bố với niềm xác tín : “Tôi đã đi, đã rửa và tôi nhìn thấy” (Ga 9,11).   
Anh đã phải chiến đấu cam go trước cám dỗ được yên thân, được cơ chế tôn giáo ủng hộ, được đám đông tuyên dương, để có thể nói thật điều mình nghĩ đúng, nói đúng điều mình nghĩ thật, khi công khai “kể đúng” những gì Đức Giêsu đã “thật sự” làm cho anh, và nhắc lại “đúng” những lời của người chữa lành mắt đã “thực sự” nói với anh. Anh phải chiến đấu vất vả vì lực lượng hùng hậu, và ma mãnh của Bóng Tối đã không chấp nhận Ánh Sáng được trả lại cho anh, vì Bóng Tối muốn mãi mãi thống trị anh, và không muốn anh đón nhận Ánh Sáng như hồng ân.
Những năm tháng mù loà, anh không thể mường tượng thế nào là ánh sáng, vì bóng tối với thời gian đã làm anh quen và không còn thấy xa lạ, khó chịu, bực bội với bóng tối, như người sống nhiều năm trong hang động, hay lâu ngày bị giam cầm dưới hầm tối sẽ lảo đảo, té nhào phút đầu tiếp cận ánh sáng, nên khi có ánh sáng ùa vào cuộc đời, anh cũng phải dũng cảm chiến đấu để Vượt Qua bóng tối, đi vào Ánh Sáng, chứ không ngoan cố ở lì trong bóng tối và không chịu thoát ra.
2.   Kết qủa khác biệt giữa Ánh Sáng và Bóng Tối : 
Anh mù được chữa lành đã thấy ánh sáng, và khi đón nhận ánh sáng, anh đã nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa, Đấng đã cứu anh khỏi bóng tối mù loà.
Đấng ấy đến để ban ánh sáng cho nhân loại, nhưng không phải tất cả mọi người đều mở lòng đón nhận ánh sáng như anh. Bằng chứng là những người Pharisêu và nhiều người Do Thái có mặt hôm đó đã lên tiếng phủ nhận phép lạ ánh sáng của Đức Giêsu khi Ngài chữa lành anh, mặc dù phép lạ đã xẩy ra tỏ tường, và họ kiểm chứng được tận mắt, tận tay, tại chỗ.    
Đó là lý do thánh Gioan Tông đồ đã nhấn mạnh trong phần mở đầu Tin Mừng : “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,9-11). Cũng như chính Đức Giêsu đã khẳng định, trước những ngoan cố, và phủ nhận Ánh Sáng của nhóm Pharisêu và những người Do Thái cứng lòng : “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử : cho người không xem thấy đuợc thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù !” (Ga 9,39).
Nhìn vào anh mù được chữa lành, chúng ta thấy anh là người thiện tâm, khi lương thiện đón nhận “hồng ân được sáng mắt” được ban từ tay người có tên Giêsu, mà sau đó anh đã tuyên xưng niềm tin ở Ngài và sấp mình bái lậy (x. Ga 9,38). Chính nhờ mở lòng đón nhận hồng ân ánh sáng, Thiên Chúa đã cho anh được gặp Ngài, nhận ra Ngài và thờ lậy Ngài. Cũng chính vì nhận ra ơn Thiên Chúa ban cho mình, mà anh được bình an, dũng cảm để làm chứng bằng nói lên sự thật Thiên Chúa đã làm cho anh, trước mọi thách đố, cạm bẫy, cám dỗ, thử thách của ác nhân. 
Bên cạnh ơn bình an của đức tin, anh còn nhận được hoa trái ngon ngọt của Ánh Sáng là Lương Thiện, Công Chính và Chân Thật như thánh Phaolô đã ân cần nhắc bảo các tín hữu Êphêsô : “Anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng ; mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật” (Ep 5,8-9).
Ngược lại, khi nhìn vào những người chống lại ánh sáng, tức chống lại Đức Giêsu, như nhóm Pharisêu, chúng ta thấy họ không tin, dù đã thấy tận mắt, đã sờ tận tay ; thấy họ không bình an, nhưng bất an, bất ổn, tâm hồn bấn loạn vì hận thù, ganh ghét, khi tìm đủ cách ngụy tạo, vu khống, thúc giục người này người kia làm chứng gian, nói dối, bóp méo sự thật, như họ đã  điên cuồng làm áp lực trên anh mù và gia đình anh.
Chúng ta cũng thấy ở những người từ chối ánh sáng này con người và thái độ không chút “lương thiện, công chính và chân thật”, qua tư tưởng bất chính, lời nói  xảo quyệt, và việc làm gian ác, khi tìm mọi cách tận diệt niềm tin của anh mù vào Đức Giêsu, và giập tắt ánh sáng anh vừa nhận được như hồng ân vô cùng lớn lao từ Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người.
Vâng, như anh mù được sáng mắt, nhờ bí tích Thanh Tẩy và Thêm Sức, chúng ta được Thiên Chúa cho sáng mắt, được lớn lên và xứng đáng hơn mỗi ngày với ơn huệ làm con cái Ánh Sáng, khi thấy tất cả mọi người, mọi sự chung quanh mình, và nhìn mọi biến cố xẩy ra hằng ngày theo cái nhìn của Thiên Chúa, và dưới cái nhìn của Thiên Chúa. Nhờ đó, chúng ta không ngủ mê trong bóng tối, nhưng trỗi dậy dưới ánh sáng rạng ngời của Đức Giêsu (x. Ep 5,14), Ánh Sáng cứu độ của Thiên Chúa, Ánh Sáng cứu chuộc muôn dân.
Jorathe Nắng Tím

THIÊN CHÚA CẦN CON NGƯỜI


                               Suy Niệm TIN MỪNG Lễ TRUYỀN TIN 25/3
Thiên Chúa đã khởi sự công trình Cứu Chuộc bằng  ngỏ ý mời con người cộng tác, qua việc sai sứ thần Gabrien đến với một Trinh Nữ có tên là Maria, làng Nadarét và đề nghị Trinh Nữ chấp thuận làm Mẹ Ngôi Lời Thiên Chúa sẽ làm người trong lòng Trinh Nữ nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần.
Sau những trao đổi khiêm tốn, thẳng thắn và chân thành, Trinh Nữ Maria, con người đẹp lòng Thiên Chúa đã chính thức nhận lời cộng tác với Thiên Chúa trong công cuộc Cứu Thế của Ngài, khi dứt khoát trả lời : “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38).
Và Ngôi Lời đã làm người, và ở giữa chúng ta (Ga 1,14).
Lời nguyền rủa Rắn, tức Thần Dữ, cũng là Lời Hứa cứu độ của Thiên Chúa sau khi nguyên tổ phạm tội : “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy ; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (St 3,15) nay đã được thực hiện, và Lời Hứa ấy đã được các ngôn sứ nhiều lần nhắc lại khi tuyên sấm, đặc biệt ngôn sứ Isai : “Chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu : Này đây một Trinh Nữ sẽ thụ thai, sinh hạ con trai và đặt tên là Emmanuen” (Is 7,14) nay đã  hoàn toàn được ứng nghiệm.
Chúng ta thấy trong biến cố Truyền Tin :  
1.   Thiên Chúa tuyệt đối tôn trọng tự do của con người :
Dựng nên con người, Thiên Chúa đã không hỏi ý kiến của ai, vì chưa có ai để hỏi, khi tất cả còn là hư không. Nhưng khi đã dựng nên con người giống hình ảnh mình rồi, thì Thiên Chúa tuyệt đối tôn trọng tự do của con người, là hình ảnh của chính Ngài.
Vì thế, với tự do là hình ảnh của Thiên Chúa, con người đã trở mặt phản nghịch Thiên Chúa khi nghe lời Thần Dữ xúi dục không tin ở Ngài, không tin Ngài thương yêu, không tin Ngài hết lòng chăm nom, săn sóc, và không để phải thiếu thốn gì.
Tự do đã cho con người quyền “nói có, nói không” với Thiên Chúa ; tự do đã cho con người địa vị bá chủ mọi loài được Thiên Chúa tạo dựng (x. St 1,28), nhưng cũng chính tự do làm con người tự cắt đứt ân tình, gạt bỏ ân nghiã với Thiên Chúa, nhưng chính tự do cũng đã mở mắt con người để “thấy mình trần truồng”, nghèo nàn, phản phúc, nên xấu hổ, sợ hãi, tránh mặt Thiên Chúa (x. St 3, 7-10).   
Nhưng vì yêu thương vô cùng và đến cùng, Thiên Chúa đã không nỡ bỏ con người mà Ngài đã yêu thương tạo dựng, nên đã lên ngay một chương trình cứu vãn những gì đã sụp đổ, hư hỏng, qua Lời Hứa Cứu Độ, nhưng Lời Hứa ấy sẽ chỉ có thể được thực hiện với sự cộng tác tự do, hợp tác tự nguyện của con người, như con người đã  tự nguyện, tự do bất hợp tác với Thiên Chúa cho hạnh phúc của mình, trong vườn địa đàng.
Trong biến cố Truyền Tin, sứ thần đã được sai đến để hỏi ý kiến con người, để chờ đợi ở con người một lời chấp thuận, để nhận từ con người một cam kết hợp tác, và con người đại diện cho tất cả loài người ấy chính là Trinh Nữ Maria, quê làng Nadarét, người nữ đuợc Thiên Chúa yêu thương, chúc phúc. Chính người đã thay mặt nhân loại trả lời xin vâng, bầy tỏ tự do tin yêu, tự do phụng thờ, tự do vâng  phục, tự do phó thác, tự do dấn thân thực thi Thánh Ý Thiên Chúa trong nhiệm cuộc cứu độ nhân loại.
Và chương trình cứu chuộc qua mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Lời Thiên Chúa đã thực sự được khởi sự tốt đẹp ngay sau biến cố Truyền Tin hôm ấy.
2.   Cộng tác với Thiên Chúa là vâng theo Thánh ý Ngài :
Là Cha thương yêu, nhân hậu và toàn năng, nên kế hoạch nào, chương trình nào của Thiên Chúa chuẩn bị thực hiện cho con người cũng đều tốt đẹp và hoàn hảo, vì Ngài là Tình Yêu và chỉ muốn trao ban những gì tuyệt vời nhất cho con người.
Vì thế, khi chờ đợi con người tự do cộng tác vào kế hoạch, chương trình đem lại hạnh phúc cho con người của mình, Thiên Chúa chỉ mong con người chấp thuận ý muốn yêu thương, và làm theo kế hoạch đã được quan phòng cách tuyệt hảo của Ngài, bởi chỉ một mình Ngài là Thiên Chúa mới biết rõ chúng ta cần gì, và thực hiện hoàn hảo những gì cần cho chúng ta (x. Mt 6, 25-34).
Tóm lại, điều Thiên Chúa cần ở con người là vâng phục Thánh Ý Ngài ; công việc con người cần làm để cộng tác với Thiên Chúa là sống theo Luật Chúa ; thái độ con người cần có để làm vui lòng Thiên Chúa là là làm theo Lời Ngài dậy, như Đức Giêsu đã đến để làm theo ý Chúa Cha, đã đến để thực thi ý muốn của Cha Ngài, như lời thánh vịnh 39 đã được thánh Phaolô nhắc lại cho tín hữu Do Thái:
Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô nói : Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa : Lậy Chúa, này con đây, con xin đến để thực thi thánh ý Ngài, như sách thánh đã chép về con (Dt 10,5-7).
Vâng, ý nghiã quan trọng của lễ Truyền Tin là Thiên Chúa tuyệt đối tôn trọng tự do của mỗi người, cũng như cần chúng ta cộng tác với Ngài trong việc cứu rỗi chính chúng ta và anh em, bằng vâng phục Thánh Ý yêu thương và tuyệt hảo của Ngài, Thánh Ý luôn mang lại Hạnh Phúc đời đời cho chúng ta.
Lậy Đức Trinh Nữ Maria, dung mạo và gương mẫu của Giáo Hội, xin Mẹ đồng hành với Giáo Hội để Giáo Hội luôn sẵn sàng cộng tác với Thiên Chúa bằng khiêm tốn, vâng phục Thánh Ý để chúng con, con cái của Mẹ và Giáo Hội được cùng Mẹ hát vang lời kinh Tán Tụng : “Chúa đã làm cho con biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn !” (Lc 1,49)
Jorathe Nắng Tím