Đã bao nhiêu Mùa Vọng đi qua,
nhưng qủa thực, tôi chưa biết đích xác sứ điệp nào là sứ điệp Mùa Vọng Chúa gửi
đến cho tôi. Vì bận kiếm sống cũng có, mà vì lười biếng, buông thả cũng có, Mùa
Vọng với tôi đã chỉ đơn thuần là muà chuẩn bị một lễ Giáng Sinh hoành tráng, có
đèn sao khắp nơi, có hang đá khổng lồ cuối nhà thờ, có lễ đêm và bữa ăn thịnh sọan
sau lễ. Ngoài ra, không có gì hết, nếu có thì chỉ là ý niệm sơ sài Chúa xuống thế làm người và tâm tình biết
ơn Thiên Chúa rất mong manh, hời hợt.
Mùa Vọng năm nay, khi tuổi đời đã sang bên kia triền đồi, đang hồi xuống
dốc, tôi mới giật mình tiếc nuối bao
nhiêu Mùa Vọng đã vô nghiã vụt trôi.
Nhờ tiếc nuối, tôi mới nhận
ra : Mùa Vọng là mùa đem lại niềm Hy Vọng cho chính tôi, trước khi là Mùa
Hy Vọng của toàn thể nhân loại.
Đem lại niềm hy vọng cho chính
tôi, khi Lời Hứa Đấng Cứu Thế sẽ đến để "đem Tin Mừng cho người nghèo khó, ban bố ân xá cho kẻ tù đầy, cho
người đui mù được thấy, cho kẻ áp bức được giải oan ; và mọi người được
loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa" (Lc 4, 18-19).
Sở dĩ là niềm hy vọng của tôi, bởi
như mọi thân phận làm người, tôi đã không thể thoát khỏi những vết thương do
người khác gây ra. Người khác ấy có thể là người ghen ghét, kèn cựa, kiếm chuyện
vu oan, giáng hoạ cho tôi cách vô cớ ; có thể là đối phương trong tình cảm,
việc làm ; có thể là những người tôi yêu thương đã dầy công giúp đỡ nhưng
quay mặt làm ngơ, phản bội ; có thể là người nhà, thân quen không hiểu hay
không muốn hiểu tôi vì một lợi ích riêng tư hay tính toàn cỏn con nào đó. Nhưng
tất cả đã ít nhiều, xa gần, trực tiếp hay gián tiếp làm khổ tôi. Họ có thể đã
ruồng bỏ, xua đuổi tôi, khi nói : "chúng tôi không muốn có
anh", và đẩy tôi rơi vào tình cảnh tâm lý trốn chạy mọi người, vì mặc cảm
sợ hãi, dư thừa, làm phiền người khác ; họ có thể đã dửng dưng, lạnh lùng,
bỏ rơi tôi khi nói : "chúng tôi không thể giữ anh với chúng
tôi", và tôi rơi sâu xuống vực thẳm mặc cảm vô dụng, bất tài vô tướng,
không còn dám tự mình quyết định bất cứ một việc gì ; họ có thể đã mạ lỵ,
xỉ nhục tôi, khi vu khống đủ điều thật phi lý, nhưng đầy độc ác, để tôi biến
thành một người luôn tự hổ thẹn vì mặc cảm có tội, và chỉ còn thú vui khi tự làm mình đau khổ hay làm người
khác khổ đau ; họ có thể đã phản bội, phản phúc, để tôi trở thành người
không còn dám tin ai, không chia sẻ được với người nào, nhưng thành kiến, ngờ vực,
đề phòng mọi người ; họ có thể đã nghiền nát tôi bằng rất nhiều ngôn từ,
việc làm bất công, đến nỗi tôi trở thành vô cảm, cứng cỏi, lạnh lùng, không còn
biết chạnh lòng, cảm thương bất cứ ai.
Và chỉ với năm vết thương sâu
hoắm trên thân xác cuộc đời vừa kể đã đủ làm cuộc sống tinh thần của tôi hầu
như mất phương hướng, đúng hơn là làm tôi tha hoá toàn phần.
Nhưng đó mới chỉ là tương quan giữa tôi với
người khác, giữa "cái tôi" với những "cái tôi khác" chung quanh. Kinh nghiệm cho thấy những tương quan này theo thời gian ngày càng
chằng chịt đan quyện, ngóc ngách, rối rắm đến nhiêu khê, không gỡ được đưa đến tình trạng đánh mất chính mình, mà nhiều
khi mình cũng không hề hay biết.
Bên cạnh tương quan với tha nhân,
chính tôi cũng là nguyên nhân của vô vàn phức tạp, dẫn đến chung một hậu qủa
vong thân, xa lạ với chính mình.
Bắt đầu bằng lòng ganh tỵ. Nó dầy
vò, đay nghiến, cắn rứt khi tôi thua người
khác, kém cỏi hơn người chung quanh. Không mấy đêm ngủ ngon, không mấy ngày được
hạnh phúc, bình an cũng chỉ vì hỏa lực của lòng ghen tương, ganh tỵ. Rồi chính
tôi cũng không mấy khi hài lòng với chính mình, khi mơ ước cao xa, mà khả năng
thấp kém, khi muốn rất nhiều mà năng lực chẳng bao nhiêu. Tính kiêu căng, háo
danh, háo thắng, háo lợi đẩy tôi lên tận tuyệt đỉnh của tham vọng, và quên khuấy
giới hạn của thân phận người bị đóng khung trong không gian, thời gian, và nhiều
định chế khác, để rồi khi rớt xuống vực thẳm của thực tế, mới ngỡ ngàng, bất
mãn, thất vọng, hận mình, hận người, hận Trời.
Không hài lòng với chính mình,
khi không chấp nhận giới hạn của mình, tôi trở thành người lạ ngay trong nhà
mình, vì không nhận ra mình ngay trong ý thức của mình. Một thảm cảnh thật đáng
thương được liệt vào thảm thương hạng nhất của con người!
Vì thế, Mùa Vọng đến, trước hết
cho tôi niềm hy vọng tìm gặp lại chính mình. Gặp lại chính mình là niềm hy vọng
lớn nhất cho tôi tìm lại những niềm hy vọng khác cũng to lớn không kém :
hy vọng ở người khác, hy vọng ở cuộc đời.
Sở dĩ, tôi hy vọng được ở tôi,
vì Lời Hứa của Đấng Cứu Thế sẽ giải phóng tôi khỏi các thứ ngục tù tinh thần
cũng như thể xác. Người khác sẽ không
còn là hoả ngục, cai tù, lý hình, đao phủ khống chế, đe dọa, truy đuổi, tiêu diệt
tôi. Tha nhân sẽ không còn quyền sinh sát trên tôi, và tôi sẽ không còn sợ ai,
bởi Lời Hứa của Thiên Chúa đảm bảo cho tôi ơn giải phóng : "Người đến
để ban bố ân xá cho kẻ bị tù đầy" (Lc 4,18). Sẽ không chỉ những kẻ bị tù
đầy trong nhà giam, trại cải tạo được làm bằng gạch đá, nhưng còn là những nhà
tù, trại giam tinh thần, không tường cao, rào kín do lòng ganh ghét, hận thù, tham
vọng bất chính của người chung quanh. Sẽ không chỉ có tù nhân chính trị, hình sự
bằng xương bằng thịt, nhưng còn là những người tù tuy có xương thịt, nhưng cùm gông, xiềng xích thì vô hình,
và vô cùng rùng rợn, đau đớn.
Mùa Vọng đến cho tôi niềm hy vọng
được Lời Hứa của Đấng Cứu Thế giải oan những vu khống bất công thiên hạ từ bấy
lâu đổ vấy : "Người giải oan cho kẻ bị áp bức" (Lc 4,18). Giải
oan cho kẻ bị áp bức là trả lại cho họ niềm hy vọng căn bản của người công
chính, bởi không ai có thể bình an, hạnh phúc trong mặc cảm là người bất chính,
mà mục đích của tất cả việc làm hàm oan, vu khống, mạ lỵ người khác đều là biến
họ thành người bất chính, để phải chịu hình phạt dành cho người bất chính. Đấng
Cứu Thế thấu hiểu nỗi thất vọng của người bị hàm oan, nên sứ điệp Tin Mừng của
Ngài đã không bỏ quên họ, nhưng tìm giải oan, trả lại cho họ danh dự người công
chính .
Mùa Vọng còn cho tôi ánh sáng hy vọng khi Lời
Hứa của Đấng Cứu Thế "cho người
đui mù được thấy" (Lc 4,18). Người mù được thấy chính là tôi. Vì mù nên mới
thất vọng khi không thực hiện được những ước vọng vượt qúa tầm tay ; vì
đui nên mới tuyệt vọng khi những công trình vĩ đại cứ theo nhau đổ vỡ, thất bại,
chỉ vì khả năng non nớt, yếu kém ; vì khiếm thị nên mới lạc lối về trong
những thiếu sót, khiếm khuyết như bệnh tật, cuộc sống kém may mắn của
mình, nên khi ánh sáng của Đấng Cứu Thế mở mắt cho
thấy giới hạn đích thực của con người, tôi mới hoàn hồn biết mình được cứu sống,
nhờ nắm bắt sự thật của chính mình được mặc khải bởi Thiên Chúa qua Lời Hứa ban
niềm Hy Vọng của Ngài.
Khi "mở mắt cho người mù được
thấy", Lời Hứa của Đấng Cứu Thế cũng cho tôi thấy giới hạn của người khác, giới hạn của họ cũng « có hạn » như
giới hạn của tôi. Và vì biết họ có giới hạn như tôi, nên tôi không nỡ trách
móc, hận thù, trả đũa những bất công, bất chính, bất nhân, bất nghiã họ đã gây
cho tôi, nhưng bao dung, quảng đại hơn, vì họ đã nhìn sai, hiểu lầm, phán đoán
linh tinh, hành động bừa bãi cũng chỉ vì không biết mình có giới hạn, cũng như
tôi cứ tưởng mình vô hạn, toàn năng.
Mùa Vọng như thế không những đã
mang đến sứ điệp hy vọng giải thoát tôi khỏi mọi gông cùm của mặc cảm tinh thần,
khổ đau thân xác do giới hạn của mình và
của người khác gây ra, mà còn cho tất cả chúng tôi nhận ra mình là những người
nghèo trước mặt Thiên Chúa và nghèo đối với anh em mình. Sứ điệp Mùa Vọng cho
chúng tôi biết mình nghèo nhiều mặt, nghèo nhiều nỗi, vì nghèo không chỉ là
nghèo tiền bạc, mà còn nghèo kiến thức, nghèo đạo đức, nghèo tâm hồn, nghèo
tình nghiã, nghèo niềm tin, nghèo hy vọng, nghèo con người, nghèo Thiên Chúa…
Và Lời Hứa của Đấng Cứu Thế đã cho chúng tôi, những người nghèo của Ngài được hạnh
phúc đón nhận Tin Mừng (Lc 4,18).
Và còn hơn người nghèo, chúng tôi
còn là những người mắc nợ Thiên Chúa và anh em mình, nên Lời Hứa của Đấng Cứu
Thế cũng sẽ ban cho những người còn mắc nợ
năm hồng ân, xóa nợ (Lc 4,19)
Mùa Vọng về mang về cho tôi niềm
Hy Vọng từ Lời Hứa của Đấng Cứu Thế. Lời hứa giải phóng kẻ tù đầy, cho người
đui mù được thấy, cho kẻ bị áp bức được giải oan, người nghèo được loan báo Tin
Mừng và ban năm hồng ân, xóa nợ cho người mắc nợ. Sứ điệp ấy bấy lâu Thiên Chúa
gửi đến tôi qua Mùa Vọng, nhưng tôi nào có hay. Chính vì thờ ơ, vô tình trước sứ
điệp Lời Hứa Hy Vọng của Đấng Cứu Thế, mà đời tôi bấy lâu ảm đạm, u sầu vì thất
vọng với chính mình, thất vọng với người chung quanh. Cũng chính vì không nhận
ra sứ điệp Mùa Vọng với Lời Hứa Đấng Cứu Thế đến để giải phóng, cứu độ, chữa
lành, mà tôi hao mòn niềm vui sống với
phận người có giới hạn của mình ; cạn kiệt hạnh phúc, bình an với
người chung quanh vì những thị phi, mâu thuẫn vô bổ, vô nghiã.
Mùa Vọng năm nay với sứ điệp Hy Vọng
của Đấng Cứu Thế, Thiên Chúa làm người, tôi thấy mình tràn trề niềm vui được giải
phóng khỏi gánh nặng của mặc cảm, xiềng xích của hận thù để nhận ra mình
là người con được Thiên Chúa yêu thương
và mời gọi đi theo Ngài ; tôi cũng thấy mình có chỗ đứng và trách nhiệm
trên hành trình cùng đi với mọi người, với tấm lòng bao dung, cảm thương những
thiếu sót, giới hạn của anh em mình, khi biết tất cả đều được Thiên Chúa dẫn
vào Mùa của Hy Vọng, mùa của Hồng Ân khi nhân loại được Thiên Chúa đến cắm lều ở
cùng, yêu thương, và hiến mạng sống để cứu độ.
Jorathe Năng Tím