Sức quyến rũ của một người tập trung ở đôi mắt. Mắt thu hút người đối diện, mắt nói nhiều hơn miệng. Mắt tỏ
tình, gợi cảm, mắt nắm bắt, lột trần thực tại. Sở dĩ mắt làm được nhiều chuyện,
vì mắt nhìn được tất cả. Không có mắt, thực tại bên ngoài khó được nội tâm thu
nhận. Thiếu mắt, cuộc sống mất đi nhiều cơ hội tương giao.
Nhưng mắt không đều đặn cho mọi
người, mắt không đồng bộ cho mọi khuôn mặt, mắt không cùng độ nhạy bén cho tất
cả, nên mới phải giải phẫu mắt, cắt mí mắt, đeo kiếng, đặt tròng, nhỏ thuốc làm
mắt sáng long lanh, tô vẽ cho mắt thêm huyền ảo… Vì không cùng kích thước, chất
lượng nên mắt mỗi người nhìn vũ trụ, con người khác nhau đưa đến nhận định, ý
kiến, nhận thức khác nhau. Chính những khác nhau của đôi mắt và cách nhìn đã
phát sinh những khó khăn, phức tạp, đối kháng trong đời sống xã hội vì những
thành kiến, thiên kiến, loạn kiến, cận kiến, viễn kiến do những đôi mắt cận thị,
viễn thị, loạn thị hay vật thị, lợi thị, linh thị, cực đoan thị, ngoan cố thị,
phi nhân thị…
Tin
Mừng mùa Phục Sinh tường thuật nhiều gặp gỡ giữa Đức Kitô Phục Sinh và các môn
đệ của Ngài, từ lần gặp Mađalêna và các bà đạo đức buổi sáng sớm phục sinh gần
cửa mộ (Mc 15,1-8) đến bước đồng hành với hai môn đệ trên đường Emmau (Lc
24,13-35), rồi với mười một tông đồ (Lc 24,36-49), và lần gặp được coi là sau
cùng trên bờ biển Tibêriát (Ga 21,1-22). Trong các cuộc gặp gỡ, Đức Kitô đã
hành xử như một người sống thực: cũng ăn nói, đi đứng, cư xử như ngày xưa, trước
khi chịu chết, nhưng có điều lạ là tất cả đã không nhận ra Ngài. Đôi mắt các
ông đã không còn nhìn thấy Ngài dù Ngài vẫn là Giêsu, Thầy của các ông. Đôi mắt
các ông không nhận ra Ngài, dù Ngài vẫn cùng giọng nói, cùng dáng đi, cùng nếp
sinh hoạt quen thuộc. Mađalêna đã tưởng Ngài là người làm vườn, các môn đệ gọi
Ngài là ma, hai môn đệ trên đường Emmau nghĩ Ngài là người đi đường tình cờ gặp,
không quen biết.
Quả thực, đôi mắt các vị đã không
nhìn ra Đức Kitô từ cõi chết sống lại, bởi thân xác sống lại của Ngài đã biến đổi
và không còn là thân xác trước đó nữa như Ngài đã nói với Mađalêna: “Con đừng
giữ Thầy như vậy, vì Thầy chưa lên cùng Cha Thầy” (Ga 20,17). Tuy trở về đời sống
như con người sống thực, nhưng thân xác phục sinh của Ngài đã biến thành thân
xác siêu nhiên như ngày nào Ngài đã biến hình sáng láng trên núi trước mặt ba
môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan (Mt 17,1-8). Đó là lý do đã khiến đôi mắt nhân
loại của các môn đệ không nhìn ra Ngài.
Như thế, vinh quang của Chúa Cha
đã bao phủ thân xác phục sinh của Đức Kitô và mắt trần không thể nhìn ra Ngài.
Các môn đệ tuy là những người thân cận, ở sát cạnh Đức Kitô nhiều năm cũng đã
không nhận ra, dù Ngài đứng giữa các ông, nói chuyện với các ông, ăn uống với
các ông, nhắc nhớ kỷ niệm đã có với các ông.
Nếu chính các môn đệ của Ngài không nhận ra Ngài, hỏi ai sẽ
có thể nhận ra Ngài?
1.
Để
nhận ra Đức Kitô Phục Sinh, Đấng đã chết để đem lại “trời mới, đất mới, thế giới
mới, nhân loại mới”, đôi mắt phải được trang bị bằng cái nhìn “Tạo Dựng” ở đó
“mọi sự, mọi loài đã được Thiên Chúa dựng nên và Ngài thấy tất cả đều tốt đẹp”
(1Tm 4,4). Nhìn mọi sự như tạo vật tốt đẹp từ tay Thiên Chúa, nhìn mọi người với
hình ảnh Thiên Chúa, đôi mắt sẽ “biết” nhìn tôn trọng, nhìn xây dựng, nhìn tích
cực, nhìn bảo vệ, nhìn gìn giữ. Thế giới và con người sẽ được nhìn bằng đôi mắt
tạ ơn, bằng ánh mắt cảm mến trước công trình tạo dựng tuyệt vời của Thiên Chúa
là Cha. Trong tâm tình tri ân ấy, đôi mắt sẽ nhận ra Đức Kitô sống lại và tình
yêu của Ngài trong tất cả mọi tạo vật, nhất là trong những người đương thời
cùng sống.
2.
Để
nhận ra Đức Kitô Phục Sinh, Đấng đã chết để đem lại Bình An cho mọi tâm hồn,
đôi mắt phải mang cặp kiếng “Cứu Độ”, ở đó Thiên Chúa không bỏ sót, lãng quên,
chối từ, xua đuổi một ai, nhưng “chậm bất bình và rất nhân hậu, khoan dung” để
tất cả đều được cứu độ. Cặp kiếng cứu độ sẽ biết nhìn như Đức Kitô: không “bới
lá tìm sâu”, không “bới lông tìm vết”, không kiếm dằm trong mắt anh em, không
soi mói, kết án, không bóc trần, phanh phui, không theo dõi, tố giác. Cái nhìn
của Đức Kitô biết nhắm lại làm thinh trước yếu đuối, biết cúi sâu khẽ khàng trước
bẽ bàng, tội lụy, biết nhỏ lệ trước mất mát, thiệt thòi. Đó là đôi mắt của tình
yêu thông cảm, nâng đỡ, đôi mắt của tình yêu an ủi, chữa lành. Với cặp kiếng Cứu
Độ, mắt sẽ nhìn thấy trái tim nhạy cảm, hay chạnh lòng trước đau khổ của Đức
Kitô, sẽ nhận ra độ cao độ dày của khối tình Thiên Chúa bao la và nhiệm lạ chỉ
đợi chờ được mở lòng thứ tha.
Không
nhận ra Đức Kitô vì mắt đã không được trang bị tình yêu của Ngài khi hận thù
còn làm mắt “long lên sòng sọc”, ghen ghét còn làm “ngứa mắt”, cạnh tranh bất
chính còn làm mắt xốn xang. Không nhìn ra Đức Kitô phục sinh khi mắt còn rực lửa
dục vọng, còn sưng vù hay híp lại vì tham lam, ích kỷ. Chỉ với cặp kiếng Cứu Độ,
đôi mắt trần tục mới nhìn ra Đức Kitô đã chết vì tình yêu và sống lại cho một
thế giới mới, con người mới của tình yêu.
3.
Để nhìn ra Đức Kitô phục sinh, mắt phải mang lấy
tầm nhìn “Hy Vọng Đổi Mới” của Chúa Thánh Thần. Sở dĩ mắt không nhìn được xa,
không thấy được rộng, không sao mở lớn là vì mắt tự giam mình, tự đóng khung
trong một giới hạn nhỏ bé vì ích kỷ, chật hẹp vì ghen tương, thiển cận vì thiếu
bác ái, từ tâm và nhất là đui chột vì thiếu vắng niềm hy vọng. Mắt sẽ nổi cườm
mờ mịt khi mắt không hy vọng vào ơn trở về của chính mình. Mắt sẽ kéo màng tăm
tối khi không hy vọng vào khả năng đổi mới của anh em. Mắt sẽ khô võng mạc làm
mù loà khi không hy vọng vào ngày mai sẽ mới hơn, tốt đẹp hơn của cộng đồng
nhân loại. Mắt sẽ cay xè không còn thấy rõ khi mắt thất vọng, đào ngũ trước mời
gọi dấn thân cho tương lai trước mặt. Không mang tầm nhìn Hy Vọng của Thánh Thần,
Đấng sẽ đổi mới bộ mặt thế giới và đổi mới tâm hồn con người, đôi mắt trần tục
sẽ chỉ nhìn những gì dưới chân để thoả mãn dục vọng nhất thời và đam mê tạm bợ.
Đức
Kitô Phục Sinh đã không được nhận ra, vì mắt con người không mang Hy Vọng của
Thánh Thần. Ở đôi mắt thất vọng, người ta chỉ thấy tiêu cực, bất lực và trong
đôi mắt tuyệt vọng, uy lực của tử thần hiện lên.
Mang tầm nhìn Hy Vọng Đổi Mới của
Chúa Thánh Thần để nhận ra “Thánh Thần chân lý ở trong chúng con và ở với chúng
con” (Ga 14,17), để nhận ra đời mình luôn được an ủi (Ga 14,16), để thấy đời
mình được hướng dẫn, dạy dỗ bởi Thánh Thần (Ga 16,13). Tầm nhìn Hy Vọng sẽ xoá
tan mây mù thất vọng, phá tan màn sương vô vọng, diệt tan bóng tối tuyệt vọng
phủ che đôi mắt. Tầm nhìn Hy Vọng trong Thánh Thần sẽ như lưỡi lửa của Thiên
Chúa đậu xuống trên đầu, ban dư đầy ơn thánh, làm ngạc nhiên, sửng sốt mọi người
(Cv 2,1-13).
Đức Kitô đã sống lại. Ngài cũng đến
gặp gỡ mỗi người, như đã đi gặp các tông đồ. Nếu mắt con người đã không cho các
ông nhận ra Ngài, thì đôi mắt nhân loại nơi mỗi người cũng khó nhìn thấy Ngài.
Nhưng nếu không gặp được Ngài, không nhìn thấy Ngài, không nhận ra Ngài trong
ngày Phục Sinh thì ngày mai của đời Kitô hữu sẽ ra sao? Không lẽ sẽ là chuỗi
ngày dài không có Ngài? Không lẽ sẽ là cuộc đời buồn tênh không tình Ngài?
Không lẽ sẽ là đường dài vô vọng không bóng Ngài đồng hành?
Lạy Đức Kitô đã chết và đã sống lại,
xin cho chúng con đôi mắt Đức tin, Đức Mến, Đức Cậy để nhìn ra Chúa đang ở bên,
để nhận ra Chúa đang đến gần, để phục vụ Chúa đang ở trong anh em.