Tìm kiếm Blog này

Thứ Tư, 13 tháng 5, 2020

Chương IX: NHỮNG NẾP SÔNG HẬU LY DỊ


Đứng trước hay bị đặt vào bất cứ hoàn cảnh, tình huống mới nào, con người đều cần biểu hiện một cách ứng xử, chọn lựa một thái độ, thích nghi một vị thế.
Như từ ngoài trời sáng bước vào phòng tối, đôi mắt phải vận động để chọn lựa “sống với” và thích nghi với bóng tối. Thiếu khả năng chọn lựa và thích nghi, mắt sẽ không thấy gì khi thay đổi môi trường tối - sáng. Cũng như người con gái giã từ thời độc thân đi vào đời sống hôn nhân, nàng phải chọn lựa và cố gắng thích nghi với đời làm vợ, làm mẹ khi chấp nhận thay đổi từ nếp nghĩ, nếp sống, đến nếp nhà, và bỏ lại nếp nghĩ thời con gái, nếp sống độc thân, nếp nhà cha mẹ.  
Kết hôn là bắt đầu cuộc đời chung của vợ chồng. Ly hôn là bắt đầu cuộc đời riêng của vợ chồng quyết định chấm dứt tình trạng chung sống. Nghiã là từ ngày ly hôn, vợ chồng sẽ không còn gì chung:  không chung nhà, chung giường, chung mâm, chung hướng, chung sức, chung lòng, chung tình, “chung đụng”. Tắt một lời là không còn gì để “chung nhau”.
Vì bắt đầu một cuộc sống riêng khi bước ra khỏi đời  chung  sống, người trong cuộc bị đặt trước một tình thế mới, không giống như những gì có hôm qua, không bình thường như tuần trước, nên một lối sống, kiểu sống, lẽ sống, nếp sống mới phải được tức khắc cập nhật.
Có nhiều chọn lựa khác nhau, vì mỗi người đều có tự do làm điều mình cho là đúng và thích hợp nhất. Không ai có quyền bắt buộc người khác phải theo mô hình của mình, vì chẳng hoàn cảnh nào giống hoàn cảnh nào, chẳng cuộc tình nào giống cuộc tình nào, và tất nhiên chẳng có hai cuộc chia tay ly dị  rập chung một khuôn mẫu. Chính vì thế, điều cần ghi nhận trước tiên chính là tính đặc thù, “không giống ai” của từng cặp vợ chồng ly dị.
Tính cách đặc thù bắt nguồn từ những nguyên nhân đưa đến ly hôn. Có hằng ngàn vạn nguyên nhân to nhỏ, quan trọng, tầm thường khác nhau đã góp phần làm nên đổ vỡ hôn nhân. Cặp này ly dị vì áp lực gia đình, cha mẹ; cặp khác bỏ nhau vì không chịu nổi tính hư tật xấu của nhau; đôi này chia tay vì không hợp lối sống; đôi nọ đứt gánh vì làm ăn thất bát, nợ nần chồng chất đã đẩy đến tình trạng phải xa nhau. Trăm đôi thì ngàn lý do đưa đến ly dị. Ngàn đôi thì vạn nguyên nhân khác biệt dẫn đến ly hôn. Vấn đề là một khi đã chia tay rồi, người ta sẽ phải đối diện với chính mình để lại phải bắt đầu lên đường, vì đã làm người không ai được phép dừng lại trên đường đời, nhưng luôn phải bước, dù bước thế nào mặc lòng, bởi đường đời cứ cuốn người đi, đi mãi trên đường đời cho đến khi đôi bàn chân người xếp thẳng, dựng đứng, bất động, không còn chạm đất.  
1.   Tái hôn :
Phần đông nghĩ đến chuyện tái hôn, vì  có đến 52% các cặp vợ chồng trong thời chuẩn bị ly dị đã có người mới và không lạ gì khi 63,5% nguyên nhân đưa đến ly dị là do quan hệ ngoài luồng trong khi vợ chồng còn chung sống.
Tái hôn là giải pháp của đa số những người ly dị, vì nhiều nhu cầu:
a.   Nhu cầu tâm lý:
Người ta khó có thể sống cô đơn, ngay cả bậc tu hành cũng cần  đến cộng đoàn để có thể sống mà không rơi vào trầm cảm, u uất, thất vọng. Cuộc sống con người tự thân đã là cuộc sống với: với người khác, nên khi phải cô đơn, con người đánh mất tính chất cộng đoàn, một điều làm con người đau khổ không ít, cũng như vì muốn thoát ra khỏi cô đơn  mà phần đông đã cưới vợ, lấy chồng. Rất nhiều người lập gia đình vì cần được yêu thương, cảm thông, chia sẻ, tức ra khỏi cảnh cô đơn hơn là vì những nhu cầu khác.   
b.   Nhu cầu sinh lý:
Nhu cầu sinh lý cũng là nhu cầu không thể thiếu, vì  người nam và người nữ cần đến thân xác của nhau để bổ túc, hoàn chỉnh, kiện toàn nhân cách và đem lại hạnh phúc cho nhau. Sinh lý là sinh hoạt quan trọng, vì con ngưòi có thân xác, và thân xác ấy cũng như tinh thần có những nhu cầu cần được đáp ứng hợp lý. Ngoài nhu cầu ăn, uống còn nhu cầu tình dục. Nhờ có nhu cầu tình dục mà giống nòi được bảo tồn và đời sống tâm lý của con người được quân bình phát triển.
c.    Nhu cầu xã hội:
Phải tái hôn vì chưa có con, tái hôn vì cha mẹ muốn, tái hôn để nói cho mọi người biết: “tôi vẫn còn ngon cơm, chứ không bết bát, tầm thường như người ta tưởng”.
Biến cố ly hôn ít nhiều cũng hạ thấp người bị “bó buộc” ly hôn trước mắt người chủ động nộp đơn ly hôn và gia đình, phe cánh bên nguyên đơn. Tái hôn vì thế cũng là dịp để bầy tỏ quan điểm và biểu dương khí thế và giá trị của người bị miễn cưỡng ly hôn.
Ngoài ra, có thể vì chỗ đứng trong xã hội, và uy tín nghề nghiệp, có khi cũng vì phải xóa cái tiếng “bất lực, đồng tính”, nếu chẳng may người vợ cũ đã tàn nhẫn rêu rao bí mật phòng the trong thời gian đấu đá trước ly dị mà người đàn ông phải gấp rút tái hôn.
Trong các động lực thúc đẩy tái hôn, gần 47% là do tác động xã hội; nghiã là người ta phải tái hôn, nếu không sẽ khó cam nổi những áp lực từ bên ngoài, do người khác ảnh hưởng. 
d.   Nhu cầu nuôi dưỡng con cái:
Nhiều người sau khi ly dị đã không giải quyết được vấn đề nuôi và giáo dục con, vì bó buộc của nghề nghiệp hoặc vì không có khả năng giáo dục con cái đã phải gấp rút tìm một chỗ dựa mới để bảo đảm tương lai con cái. Có nhiều cuộc tái hôn không vì tình yêu, nhưng vì lợi ích của con cái, nhất là khi cả hai bên đều đã vly dị và có con riêng . Họ cần nhau để cùng lo cho hai đàn con riêng mà từ nay dù muốn dù không, chúng  phải chung sống hoà bình dưới một mái nhà.   
Nhưng không phải tất cả những người đã ly dị có thể tái hôn một cách dễ dàng và thành công. Nguyên nhân có thể là:
·      Tuy muốn tái hôn, nhưng tâm lý chưa ổn định sau biến cố ly hôn; do tâm trạng sợ sệt, lo lắng một hôn nhân mới cũng sẽ đổ vỡ sau này. Tâm trạng chung của hầu hết những người đã một lần ly dị là rất vui vì sẽ tái hôn, nhưng băn khoăn, nghi ngại vỉ bị ám ảnh bởi cuộc hôn nhân cũ.  
Kinh nghiệm  không hẳn lúc nào cũng làm người ta tự tin, vững tâm tiến bước, nhất là những kinh nghiệm  ấy hằn sâu  đổ vỡ, thất bại. Nó thường trở nên nỗi ám ảnh khó phai, mà người trong cuộc nếu không  đủ nghị lực để tẩy xóa sẽ khó có thể làm lại hôn nhân lần nữa mà không tiếp tục gẫy đổ.   
Nhiều người tự an ủi: nhờ có kinh nghiệm từ cuộc hôn nhân cũ đã đổ vỡ, ta sẽ tái hôn thành công. Nhưng đó cũng chỉ là một phần lợi thế có tính chủ quan.
·      Cả người đàn ông và người đàn bà đã ly dị đều rút ra những bài học nhớ đời từ thất bại ly hôn trước đó, nên khi tái hôn, cả hai đều mang nặng ý nghĩ phài thủ thân, phải nghiêm ngặt đề cao cảnh giác người bạn đời mới, đồng thời cũng là đối phương  bằng thủ sẵn những khí giới tự vệ tinh thần như  không quá vồ vập, không quá nuông chiều, không qúa tin tưởng, không qúa ký thác, không qúa buông lỏng, không qúa dễ dãi; nghiã là cái gì cũng  phải thắng, phải kềm, phải dè dặt và tên của vũ khí được xử dụng không giới hạn là “Không Qúa”.
Nhưng tình yêu không thể nhốt vào khuôn khổ một cách tàn nhẫn, bởi tình yêu là hào sảng, bao la, ngùt ngàn, sâu  thẳm, diệu vợi, mênh mông. Nhờ đam mê như chất xúc tác, tình yêu sẽ như trăng như sao, như mây như gió, như nhiệm mầu, phép lạ, nên không thể giam hãm tình yêu trong những cũi sắt “không qúa”; bởi tình yêu mà bị buộc trói, bị gông cùm sẽ phát sinh  trăm nỗi bất hạnh trái ngược kết qủa của tình yêu là hạnh phúc. Và rất nhiều nguy cơ từ đó sẽ dấy lên đe dọa sự bền vững và hạnh phúc của hôn nhân mới.     
·      Trước khi tái hôn, người ta thường ngây thơ nghĩ rằng: hôn nhân mới chắc chắn sẽ không có nhiều vấn đề phức tạp và đời sống sẽ dễ thở, thoải mái, thư thả hơn hôn nhân cũ. Điều này có thể đúng và có thể sai. Đúng vì sẽ bớt sai phạm những lỗi lầm của qúa khứ, cũng như sẽ khôn ngoan, sáng suốt, nhậy bén hơn trước những dấu hiệu tiêu cực để tránh hoặc chỉnh sửa kịp thời. Sai vì mỗi cuộc sống, mỗi giai đoạn, mỗi hoàn cảnh có những khó khăn riêng. Đàng khác, hôn nhân mới với người mới, chưa kể những đứa con riêng rất mới của vợ mới, chồng mới sẽ hứa hẹn nhiều bất ngờ mới, những bất ngờ vừa hứa hẹn vừa đe doạ,
Nhiều người ly dị  sau khi  bước vào hôn nhân mới đã thú nhận: không khó khăn nào giống khó khăn nào, cũng như không vợ nào giống vợ nào, nên gia đình cũ có vấn đề của gia đình cũ, hôn nhân mới có khó khăn của hôn nhân mới, chẳng ai có thể đoán trước, lường hết được những trắc trở, thử thách, nhiêu khê.        
·      Đàn bà đã ly dị thường khó tái hôn phần vì tâm lý ngao ngán đời hôn nhân, phần vì khó tìm gặp ý trung nhân mới. Nếu chưa có con, tái hôn  còn tương đối dễ, nhưng nếu đã có con,vấn đề trở nên phức tạp hơn vì chủ thể dè dặt, do dự và những  điều kiện khách quan sẽ không dễ dàng thoả mãn.
Như thế, tái hôn là một giải pháp được phần đông người đã ly dị chọn như con đường nhập cuộc mới. Con đường hôm nay cũng gập ghềnh, chông gai không kém con đường tình họ đã đi. Trên con đường này, hạnh phúc  cũng vẫn lơ lửng treo đầu ngành  đong đưa cám dỗ. Đạt được hay không là ở hai người mới tái hôn. Chính họ lại một lần nữa quyết định vận mệnh và hạnh phúc đời mình như  đã có một ngày rất vui, rất tình, rất đẹp năm xưa, chính họ đã tin tưởng ký hôn ước.
2.   Trở về đời độc thân:
Như ngườivừa thoát chết, nhiều người  đã mô tả cuộc sống hôn nhân của họ như một lần chết với nấm mồ chôn đời lứa đôi bất hạnh. Hôn nhân trở nên ghê tởm, đáng ghét, buồn nôn và người ta không mảy may nghĩ đến một lần khác nữa bước vào đời sống hôn nhân.
Với những người này, hôn nhân thất bại đã phá hủy đời họ; hôn nhân tan vỡ đã cướp khỏi đời  họ bao nhiêu  ước mơ, hy vọng; hôn nhân đổ vỡ đã làm hoen ố, dơ bẩn, tan nát đời họ và đẩy họ xuống vực sâu  nuối tiếc. Vì thế, trở về và ở lại trong đời độc thân là chọn lựa vô điều kiện, hiển nhiên. Họ không thể làm khác, vì tâm hồn đã chai đá trước mời gọi của tình yêu mới. Họ không thể thay đổi tư duy,vì hôn nhân đã làm họ sợ và không còn là ý niệm ấn tượng. Độc thân từ nay là hạnh phúc, dù hạnh phúc ấy thực chất chỉ là sự vắng mặt của lo sợ, đe doạ, khống chế. Độc thân từ nay là  bình an, dẫu cho bình an mới chỉ là  sự yên lặng của bom đạn. Nhưng ở vào tâm trạng ngao ngán đến tận cùng hôn nhân không hạnh phúc, người ta chỉ còn biết bám lấy đời độc thân như chiếc phao cứu hộ an toàn giữa con nước xóay đục ngầu. 
3.   Sống chung không hôn phối:
Đây là kiểu sống thời đại mới đang thịnh hạnh, ăn khách. Lối sống không ràng buộc, không cột trói, không ai có quyền trên ai. Hai người tự nguyện sống chung, chia sẻ đồng đều vật chất, nhưng tránh không can dự đời riêng của nhau. Tuy ở chung, ăn chung, nằm cùng, nhưng đời ai nấy sống, tiền ai nấy tiêu, việc ai nấy làm, tương lai ai nấy lo. Con cái là tai nạn phải tránh để không là sợi giây buộc trói nhau. Vì không khế ước, giao kèo, thề thốt nên vui thi ở, buồn thì chia tay, không ai phải  tơ vương, bận vướng  điều gì, cũng chẳng phải ngậm ngùi, lưu luyến khi tình thế xô đẩy phải xa nhau.
Lý thuyết thì thế, nhưng thực tế không hẳn như vậy; bởi ai làm chủ, be bờ  được những cơn sóng đam mê, tình cảm ở mình và nơi người khác? Ai ngăn  nổi những bước liều lĩnh của cảm xúc ? Ai biết trước đường bay của trái tim ?
Nhưng vì không làm chủ được mình và tình huống không ngừng biến động, nên  người ta sẽ rơi vào tình trạng ngàn lần phức tạp hơn quyết định chính thức tái hôn, vì không định vị, gọi tên, nhận diện, mô tả chính xác được nếp sống nửa vời, nửa chừng, nửa nạc nửa mỡ mà họ đang  “nửa sống nửa chết” thoi thóp cầm cự.      
4.   Tiếp tục sống đời tầm gửi:
Có những người quen sống bám víu, cậy nhờ, nương bóng người khác, mà suốt đời không bao giờ có thể tự mình đứng vững, tự chủ, tự lập. Không thiếu những  vợ chồng phải đi đến ly hôn vì một trong hai người đã qúa ỷ nại, lười biếng, yếu đuối và khoán trắng đời mình cho người bạn đời mà không chút liêm sỉ, hổ thẹn.
Những người quen sống tầm gửi, lệ thuộc sẽ khó có thể tự mình làm cuộc sống sau khi ly dị, nên vẫn tiếp tục mon men tìm lại người cũ đã ly dị để bám víu, cậy nhờ.
Thực ra không chỉ lệ thuộc vật chất mà còn lệ thuộc tinh thần và lệ thuộc thứ hai này mới quan trọng, vì nó điều khiển lệ thuộc thứ nhất. Tâm lý người sống tầm gửi là không tin ở mình. Chính vì không dám tin mình, không muốn tin mình nên mất khả năng suy nghĩ và quyết định. Con người hơn con vật ở lý trí và ý chí để suy tư và quyết định, thế mà cả hai cơ năng quan trọng đều mất hoặc yếu liệt thì hỏi làm sao làm người cho đúng, làm người cho xứng đáng được ?
Những người này coi việc xé hôn thú không quan trọng, vì có hay không hôn thú, họ vẫn tiếp tục sống đời lệ thuộc. Họ lệ thuộc bằng lì lợm không ra khỏi nhà, ngay cả toà án đã quyết định phải ra đi. Họ lệ thuộc bằng sự có mặt trơ trẽn, không xấu hổ, ngượng ngùng, miễn sao được nhìn thấy người mình cần bám víu, nương tựa. Không hẳn bám víu vật chất, vì có thể họ không cần tiền, nhưng động cơ thúc đẩy họ gắn chặt vào đời người kia là tâm lý yếu đuối, tầm gửi. Ở vào hoàn cảnh này, người bạn đời cũ của họ sẽ là nạn nhân vô cùng đáng thương, vì không thể tái tổ chức cuộc sống riêng mình.
5.   Quên đời đi tu:
  Trên đây là một vài nếp sống tiêu biểu thời hậu ly dị. Gọi là tiêu biểu, bởi nếp sống thì không thể giản lược khi mỗi người là một thế giới đặc thù, riêng biệt, mầu nhiệm. Những lối sống mới, đường sống mới trên đây thực ra chỉ là những chọn lựa bên ngoài có tính xã hội, còn một chọn lựa ngàn lần quan trọng hơn và có giá quyết định hạnh phúc mới của mỗi người, đó là chọn lựa nội tâm, chọn lựa của trái tim, tâm hồn. 
Người  ta có thể vẽ vời hàng trăm mô hình sống, hình dung hàng ngàn kiểu cách thức thời, nhưng tất cả sẽ vô ích vì không giải quyết được vấn đề lẽ sống, ý nghiã cuộc sống, giá trị đời sống, và nhất là không đem lại cho đời người niềm vui sống, nếu trái tim chưa mở cửa và tâm hồn chưa tìm được hướng đi. 
Trái tim chưa mở cửa là trái tim đầy đặc chuyện xưa, việc cũ, và  vương vấn những buồn tủi, hận thù. Trái tim  chưa mở cửa là cõi lòng còn trống trải, hoang vu vì thương cảm, thứ tha chưa vào được. Trái tim chưa mở cửa là trái tim cố tình khép kín trước tất cả mọi mời gọi đến với người khác. Trái tim chưa mở cửa là trái tim cô độc, khô héo giữa sa mạc tình người. Và phần lớn trái tim đã một lần tan vỡ sau li dị là những  trái tim đầy đặc,hoang vu, trống trải, chưa mở cửa đó.
 Để có hạnh phúc tái hôn hay niềm vui “ở độc thân” sau ly dị được bảo đảm, tâm hồn  phải thông thoáng để tìm thấy  hướng đi; bời cuộc đời tự thân đã là hành trình, nên một khi có mặt trên  hành trình, dù muốn dù không con người phải bước đi.
Chính vì phải bước đi mà tâm hồn phải định hướng. Không định hướng, hành trình cuộc đời không có đích tới để sẽ không bao giờ  “cập bờ về  bến”.
Nhưng đâu là chià khoá để mở cửa lòng khép kín; đâu là bí quyết để trái tim ra khỏi hoang vu, trống trải; đâu là bao la làm tan khối u đầy đặc sầu buồn, và đâu là hướng tâm hồn phải đi ?
Hơn bất cứ lúc nào, hậu ly dị  là thời cần quảng đại để cửa lòng thôi khép kín, để tâm hồn thôi tự chôn vùi. Quảng đại là chià khóa vạn năng mở ra chân trời mới, mở ra cuộc sống mới tràn đầy hy vọng, đồng thời trả lại cho người vừa ra khỏi đêm đen ly dị ánh sáng hân hoan và rạng đông ngày mới.
Quảng đại để quên đi những chuyện cần quên, nên quên cho tâm hồn thanh thản. Quảng đại để không chấp nhất chuyện buồn ngày cũ, cả những chuyện cỏn con bị người cũ thổi phồng. Quảng đại để hôm qua không làm hỏng hôm nay, và không phá hoại ngày mai cho bước chân hôm nay được vững chắc đi vào ngày mai rạng rỡ. Quảng đại để tất cả những gì đã qua được nhẹ nhàng qua đi trên  dòng sông qúa khứ cho hôm nay  bên suối mát, nguời với người lại rộn rã theo ngày mai đi vào hy vọng. Quảng đại để thôi sầu đời hận người và cho tương lai một cơ hội đẹp hơn. Quảng đại để thất bại hôm qua không là thảm họa  định mệnh của ngày mai, nhưng chỉ là một bước hụt hẫng đã kịp thời  quân bình.
Không quảng đại, người ta không thể làm lại cuộc đời, làm đẹp cuộc sống mới sau  hôn nhân đổ vỡ, vì nợ nần cũ còn nặng nề cần thanh toán, chuyện tình cũ còn nặng lòng cần trang trải, vợ chồng cũ còn nặng nề ân oán hai vai. Không quảng đại sẽ không  quên được tháng ngày của nước mắt đợi chờ, trách móc, ngược đãi, tệ bạc, lừa dối…Không quảng đại sẽ tiếc nuối khôn nguôi thời chung  sống bất hạnh và giận mãi suốt đời những ngang ngược, lầm lỗi đã làm khổ  nhau. Không quảng đại sẽ chẳng bao giờ quên oán nhớ ơn để kỷ niệm còn được là những dấu ấn của một thời thân ái. Không quảng đại người ta sẽ mãi là pho tượng buồn cô đơn chết giữa hiện tại vì bận thở than dĩ vãng. Và ngày mai của tượng đá buồn vẫn mãi là dĩ vãng buồn của tượng đá.   
Để thôi làm tượng đá buồn dĩ vãng, người ta phải mở lòng để lòng  người khác vào được lòng mình. Muốn ra khỏi đời buồn  vô vọng, phải hé mở trái tim mình để đón những tia nắng hy vọng đến từ trái tim tha nhân. Đừng gắn  chặt  đời còn lại vào  những mảnh vụn của qúa khứ đổ vỡ, bởi quá khứ không là hiện tại, dù qúa khứ có đóng góp ít nhiều kinh nghiệm cho tương lai.
Nhiều người coi kinh nghiệm qúa khứ là đáp số của tương lai. Quyết đoán này không có cơ sở, cũng không đúng trong thực tế, khi khả năng thay đổi của con người luôn phong phú vô tận và trí  thông minh, cũng như ý chí lựa chọn của con người  chỉ chấp nhận kinh nghiệm qúa khứ  như một nhà tư vấn có thể cho những lời khuyên hay góp ý phần nào. Nhìn nhận chính xác và công bằng vai trò của kinh nghiệm sẽ giúp chúng ta thoát khỏi mặc cảm, ám ảnh, thành kiến, nhờ đó, ngày mai sẽ luôn mở ra trời xanh hy vọng.    
Tóm lại, muốn xây dựng lại cuộc đời, làm lại cuộc đời hay đổi đời, thay lối sống, người ta đều cần Quảng Đại làm nền móng. Có quảng đại tha thứ lỗi lầm xưa của mình và của người cũ, quá khứ đau buồn mới không làm nứt tường, nẻ vách ngôi nhà mới xây. Có quảng đại buông tha ký ức buồn, kỷ niệm không vui; qúa khứ mới không làm reo, bắt nạt, khống chế  hạnh phúc vừa đơm bông của hiện tại. Có quảng đại nhìn nhận những tích cực của người xưa và trân qúy, biết ơn; qúa khứ mới không đeo đuổi làm  ác mộng hù doạ tình yêu mới vừa nẩy mầm. Có quảng đại bao dung cho những khuyết điểm, thiếu sót và ngay cả tội lỗi của mình và của người xưa; qúa khứ mới không gào thét đòi nợ xương  nợ máu. Và có quảng đại quên bớt “cái tôi” thường xuyên vĩ đại, người ta mới có thể nhẹ bước trên hành trình hạnh phúc mới.    

0 nhận xét: