Hai thánh Tông Đồ Simon và Giuđa, còn gọi
là Tađêô là hai vị ít “nổi đình đám” bên cạnh các thánh Tông Đồ khác như Phêrô,
Anrê, Giacôbê, Gioan, Philipphê, Mátthêu, Tôma... Lý do là hai vị ít được nhắc
đến trong Tin Mừng, ngoài một số đoạn như Mátthêu 10, 1- 4, Máccô 3, 13 -19, và
Công Vụ các tông đồ 1,12 - 13, đặc biệt Tin Mừng Luca 6,12-17 :
“Trong những ngày ấy, Đức Giêsu đi ra núi cầu
nguyện, và Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Đến sáng, Người
kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ. Đó là các ông
Simôn, mà Người gọi là Phêrô, rồi đến ông Anrê, anh của ông ; sau đó là các ông
Giacôbê, Gioan, Philípphê, Batôlômêô, Mátthêu, Tôma, Giacôbê con ông Anphê,
Simôn biệt danh là Quá Khích, Giuđa con ông Giacôbê và Giuđa Ítcariốt, người đã
trở thành kẻ phản bội”.
Tin Mừng cho chúng ta thấy rõ bối cảnh chọn
nhóm Mừơi Hai: Đức Giêsu đã chọn các
Tông Đồ sau một đêm dài cầu nguyện trên
núi, và Ngài đã chọn các Tông Đồ từ hàng ngũ những môn đệ đi theo Ngài. Trong số
các Tông Đồ, hai vị được Giáo Hội mừng chung do chung sứ vụ và cùng chết ở
Perse là thánh Simôn, biệt danh Simôn Qúa Khích, người làng Cana, nơi Đức Giêsu
đã làm phép lạ đầu tiên, và thánh Giuđa, anh em
với thánh Giacôbê hậu, còn có tên khác là Tađêô.
Sở dĩ thánh Tông Đồ Simon mang biệt danh
Qúa Khích, bởi ngài thuộc nhóm Zêlốt, nghiã là hăng say qúa đáng, sốt sắng qúa
đà theo nguyên ngữ Do Thái : Zeloo, trước khi đi theo Đức Giêsu.
Như chúng ta biết, năm 63 trước Công
Nguyên, tướng Pompée của quân đội đế quốc Rôma đã chiếm đóng Giêrusalem và thiết
lập ách thống trị trên toàn vùng Palestina. Chính trong hoàn cảnh chính trị
này, nhiều nhóm quốc gia, dân tộc đã thành hình với cùng mục đích đánh đuổi đế
quốc Rôma và phục hồi độc lập dân tộc. Một trong những nhóm này là nhóm Zêlốt -
Qúa Khích, chủ trương giữ Lề Luật một
cách cực đoan, qúa khích và dùng bạo lực để dành lại độc lập. Một điểm đặc biệt
khác là tinh thần vị luật của nhóm này có nhiều điểm tương đồng với các người
Pharisêu.
Năm 66 sau Công Nguyên, nhóm Qúa Khích đứng
đầu bởi Giuđa người xứ Galilê đã kêu gọi toàn dân khởi nghiã chống chính quyền
Rôma, khi người Rôma áp đặt “sưu cao thuế nặng” và mở rộng ách thống trị trên
vùng Giuđêa. Phong trào Quá Khích đã ám sát nhiều người Rôma và những người Ítraen
làm tay sai cho đế quốc, nhưng không đưa đến kết qủa nào, vì bị trấn áp rất tàn
nhẫn bởi quân đội đế quốc, mà hậu qủa là thành Giêrsalem bị thất thủ và bị tàn
phá năm 70 sau Công Nguyên.
Hai đoạn Tin Mừng sau đây giúp chúng ta phần
nào thấy rõ bối cảnh xã hội thời Đức Giêsu với những mâu thuẫn chính trị :
1. Vấn đề nộp thuế cho Xêda, hoàng đế Rôma :
“Mấy người Pharisêu và mấy người thuộc phe
Hêrôđê đến gặp Đức Giêsu và nói với Người : “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là
người chân thật. Thầy chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người
ta, nhưng theo sự thật mà dậy đường lối của Thiên Chúa. Vậy có được phép nộp
thuế cho Xêda hay không ? Chúng tôi phải nộp hay không phải nộp ? “Nhưng Đức
Giêsu biết họ giả hình, nên Người nói: “Tại sao các người lại thử tôi ? Đem một
đồng bạc cho tôi xem!” Họ liền đem cho Người. Người hỏi : “Hình và danh hiệu
này là của ai đây ?” Họ đáp : “Của Xêda”. Đức Giêsu bảo họ : “Của Xêda, trả về
Xêda ; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”. Và họ hết sức ngạc nhiên về Người” (Mc
12,13-17).
2. Vấn đề bạo lực:
Khi đám Thượng Tế và Kỳ Mục vây bắt Đức Giêsu
trong vườn Cây Dầu, “một trong những kẻ theo Đức Giêsu liền vung tay tuốt gươm
ra, chém phải tên đầy tớ của thượng tế làm nó đứt tai. Đức Giêsu bảo người ấy :
Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm. Hay anh tưởng
là Thầy không thể kêu cứu với Cha Thầy sao ? Người sẽ cấp ngay cho Thầy hơn mười
hai đạo binh thiên thần! Nhưng như thế thì lời Kinh Thánh làm sao ứng nghiệm được
?” (Mt 26, 51-54).
Qủa thực, bầu khí chính trị những ngày cuối
đời của Đức Giêsu thật ngột ngạt, nhưng Đức Giêsu đã không ủng hộ giải pháp bạo
lực trước những mẫu thuẫn, trái lại, Ngài kêu gọi tinh thần hoà giải, bất bạo động
khi nhắc nhở môn đệ của Ngài “xỏ gươm vào vỏ”.
Phần thánh Giuđa con ông Giacôbê, còn được
gọi là Tađêô, ngài truyền giáo ở vùng Samari, Arabi, Syri và chết đóng đinh tại
Perse cùng với thánh Simôn biệt danh Qúa Khích mà Giáo Hội cùng mừng kính vào
ngày 28 tháng 10 hằng năm.
Khi suy nghĩ về Ơn Gọi làm Tông Đồ, chúng
ta không thể bỏ qua yếu tố quyết định trong Ơn Gọi là chính Đức Giêsu kêu gọi
người Ngài muốn. Do đó, Ơn gọi không đến từ con người, nhưng từ Thiên Chúa, và
con người chỉ có thể đáp trả hay chối từ. Trong Tin Mừng, Đức Giêsu luôn tỏ ra
ý muốn của Ngài khi gọi ai đó đi theo Ngài. Ngài biểu lộ ý muốn tuyển chọn của
Ngài và thực hiện ý muốn đó bằng một cử chỉ, thái độ, hoặc lời mời rất rõ ràng,
chính xác, không thể nghi ngờ.
Thiên Chúa gọi những người Ngài muốn. Và
Ngài muốn kêu gọi tất cả mọi người. Điều này không mẫu thuẫn, vì mỗi người được
gọi vào một vai trò, cho một sứ vụ, tuy
khác nhau, nhưng cùng mục đích phục vụ Nước Trời.
Mừng kính hai thánh Tông Đồ Simon và Giuđa,
chúng ta cầu nguyện cho các Giám Mục là những vị kế nhiệm các thánh Tông Đồ
trong sứ vụ “Rường Cột của Hội Thánh”. Nếu
buổi ban đầu của Giáo Hội, các thánh Tông Đồ đã đổ máu vì yêu mến các giáo đoàn
được trao phó, đã hiến mạng để “đàn chiên được sống và sống dồi dào”, thì mãi
mãi đến tận thế, các Giám Mục cũng không
thể đi ra ngoài qũy đạo của Thánh Giá. Tuy không bị đóng đinh, chém đầu như các
thánh Tông Đồ, trừ thánh Gioan, nhưng đời mục tử của các ngài là “cuộc tử nạn mỗi
ngày hơn”, bởi không trái tim mục tử nào lại không biết mùi chiên, không nỗi
đau nào của mục tử lại không gắn liền nỗi khổ của chiên, không sầu buồn nào của
mục tử lại không dính chặt thân phận của chiên, không ngậm ngùi nào của mục tử
lại không ôm chặt đời chiên ngiệt ngã, và không
lỡ bước, lầm đường, yếu đuối, tội lụy nào của chiên lại có thể vuột khỏi
trái tim mục tử hay chạnh lòng xót thương.
Xin Chúa thương gìn giữ và đồng hành với Đức
Thánh Cha và các Giám Mục, để đàn chiên là chúng con “chẳng phải sợ gì, cũng chẳng
thiếu thốn chi trên đồng cỏ xanh rì, có
Chúa là Mục Tử”.
Jorathe
Nắng Tím