Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 24 tháng 12, 2018

TÍNH SỔ


                          TÍNH S CUI NĂM
    Tính sổ cuối năm là chuyện bắt buộc: ông chủ bắt gia nhân tính sổ, giám đốc buộc công nhân kết toán chi thu, chính phủ ra lệnh các ban ngành báo cáo tình hình năm cũ. Tính sổ cũng là việc làm thường tình của mọi nguời khi "năm hết tết đến" để biết mình đang ở đâu, tiến thoái, được thua thế nào. Tính sổ còn là đòi hỏi tự nhiên của lương tâm vào thời điểm kết thúc một giai đoạn, một chặng đưòng đã qua.
   Ở những ngày cuối năm, như mọi người, tôi đã tính sổ với những người tôi có bổn phận. Công việc tuy khó nhưng so ra còn dễ hơn nhiều với việc tính sổ trước lương tâm và trước Thiên Chúa.
   Trước lương tâm, càng tính tôi càng thấy mình nhiều thiếu sót, sai trái; càng kiểm điểm, càng thấy mình không được điểm nào; càng xét mình, càng thấy linh tinh tội lụy.
     Thấy mình thất thu, tụt hậu hơn mình tưởng, tôi đâm lo, phát hoảng. Tôi còn thất kinh hơn khi nhìn lại một số công việc tạm được coi là tốt đẹp, thì ôi thôi, hầu như cái trước cái sau theo nhau ngã đổ, vỡ vụn, vì người cùng thời hoặc đến sau tẩy chay, phá đổ, thay thế. Thế mới biết cuộc sống nhất thời và thấm thiá tận tâm can cái phù du, tạm bợ, chóng qua của  cuộc sống, và nhiều việc làm công cốc, như sách Giảng Viên đã viết: "Bởi ở dưới bầu trời này, mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời: một thời để chào đời, một thời để lià thế; một thời để trồng cây, một thời để nhổ cây; một thời để giết chết, một thời để chữa lành; một thời để phá đổ, một thời để xây dựng; một thời để khóc lóc, một thời để vui cười; một thời để than van, một thời để múa nhảy; một thời để quăng đá, một thời để lượm đá; một thời để ôm hôn, một thời để tránh hôn; một thời để kiếm tìm, một thời để đánh mất; một thời để giữ lại, một thời để vất đi; một thời để xé rách, một thời để vá khâu; một thời để làm thinh, một thời để lên tiếng; một thời để yêu thương, một thời để thù ghét; một thời để gây chiến, một thời để làm hoà" (Gv 3,1-8).
    Cũng trước lương tâm, khi tính sổ, tôi thấy mình vô tích sự, hay ít nhất "chẳng ra cơm cháo gì" khi nhìn lại tương quan với nhiều người. Một năm qua, nhiều người đi ngang qua đời tôi, nhưng cũng không ít người bỏ ngang đời tôi mà đi qua. Họ đi qua không dừng lại, hay họ bỏ mà đi qua, có thể vì tôi "chơi không đẹp" với họ, cũng có thể họ "xử không đẹp" với tôi. Nhưng dù do tôi hay họ, tôi vẫn thua lỗ khi phải thêm một hay nhiều con số không nữa khi tính sổ cuối năm.
      Trước lương tâm khi tính sổ, nhiều xác xuất tôi phải tiếc nuối, hối hận; nhiều phần trăm tôi có lỗi với người này người kia; nhiều điểm âm, và khiển trách, kỷ luật sẽ được ghi trên phần kết luận. Nhưng dù sao lương tâm cũng còn nhẹ tay, nhẹ tiếng, vì là lương tâm của tôi, nên tôi có thể luồn lách, biện bạch, chạy án, chạy tội.
    Nhưng giờ phút phải tính sổ trước Thiên Chúa, dù là tính sổ cuối năm hay tính sổ cuối đời mới thực là giờ phút bấn loạn, kinh hãi. Kinh hãi với tội lỗi chồng chất và bấn loạn vì đức công minh của Ngài, Đấng phán xét, thưởng phạt tôi.
     Tôi kinh hãi lắm, vì phúc nhẹ tênh mà tội nặng chịch, công ít ỏi mà nợ tràn lan. Tôi lo lắng lắm, vì không biết Thiên Chúa sẽ định đọat thế nào số phận của tôi, và nếu chẳng may Chúa từ khước, tôi sẽ ra sao ?      
     Bình thường khi bước vào tuổi sáu mươi, người ta hay nghĩ về sự chết, vì qũy thời gian sống, ngay cả với người lạc quan, cũng phải giật mình nhận ra chẳng còn lại bao nhiêu năm tháng. Và nghĩ về sự chết là nghĩ ngay đến phán xét, thưởng phạt, nên đời sống hôm nay, việc làm ở cõi thế này được đặt thành vấn đề.
   Nhưng nếu những tư tưởng, lời nói, việc làm của tôi ở đời này nắm độc quyền quyết định vận mệnh đời sau của tôi, thi ôi thôi, đời sau của tôi đi đoong mất rồi! Bởi những điều làm Thiên Chúa ghê tởm thì ít nhiều tôi đã lỗi phạm : "mắt kiêu kỳ, lưỡi điêu ngoa, tay đổ máu người vô tội, lòng mưu tính những chuyện xấu xa, chân mau mắn chạy đi làm điều dữ, làm chứng gian thốt ra lời dối trá, gieo xung khắc, đố kỵ giữa anh em" (Cn 6,17-19).
   Qủa thế, càng tính sổ trước mặt Chúa, tôi càng kinh hoàng, sợ hãi, vì nhận ra "trên mình, những mũi tên Ngài cắm ngập, bàn tay Ngài giáng nặng xuống thân tôi. Chính vì Chúa giận, mà da thịt tôi không chỗ nào lành; vì tội lỗi của tôi, mà xương tôi chẳng nơi đâu nguyên vẹn. Tội chồng chất ngập đầu ngập cổ, như gánh nặng vượt qúa sức tôi. Vết thương tôi nặng mùi, rữa nát bởi vì tôi điên cuồng; thân lom khom rã rời, kiệt sức, suốt cả ngày tôi thiểu não, lang thang. Ngang lưng đầy lửa bỏng, da thịt không chỗ nào lành. Bị suy nhược, nát tan, kiệt sức, tim thét gào, thì miệng phải rống lên" (Tv 38,3 - 9).   
    Nhưng chính trong tình cảnh "rên siết đã nhiều nên mệt mỏi, trên giường ngủ những thổn thức năm canh; từng giọt vắn dài, lệ tuôn đẫm gối, mắt hoen mờ vì qúa khổ đau" (Tv 6, 7-8), mà tôi nhận ra mình là kẻ có tội, đã làm điều gian ác trước Thiên Nhan, nhưng đồng thời cũng nhận ra "tội lỗi không lớn hơn Thiên Chúa và lòng nhân hậu của Ngài", cũng như lỗi lầm của đời này không có "độc quyền" và "quyền độc" phán quyết số phận đời sau của tôi, vì còn có lòng xót thương và ơn Cứu Độ của Thiên Chúa, Đấng từ bi, nhân hậu: "cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, Người chẳng nỡ tắt đi" (Is 42,3), Đấng đến để  tìm chiên con lạc đàn và cứu những gì đã hư mất (x. Lc 15). 
   Là chiên lạc và trong hàng ngũ "những gì đã hư mất", nên tim vẫn tan nát, ruột gan vẫn rối bời vì hoảng hốt, lo sợ ngày chung thẩm, ngày Chúa hạch hỏi tính sổ cuộc đời. Chính vì còn biết hoảng  hốt, lo sợ Thiên Chúa thịnh nộ, trừng phạt, mà tôi biết mình còn kính sợ Chúa, và chắc chắn Chúa cũng biết tôi thành tâm kính sợ Ngài, dù yếu đuối trong tôi vẫn đưa đẩy tôi "không làm điều thiện mà tôi muốn, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm" (Rm 7,19). Nhưng vì còn biết kính sợ Chúa, nên tôi tin Chúa sẽ không từ khuớc tôi, bởi "từ đời nọ tới đời kia, Chúa hằng  thương xót những ai kính sợ Người" (Lc 1,50).
     Chúa còn thương xót tôi, vì Chúa đã dựng nên tôi giống hình ảnh Ngài. Không ai dễ dàng từ bỏ người con mình đã tạo ra, cũng như người mẹ khó rời xa đứa con thơ. Thiên Chúa nhận mình yêu con người hơn cả mẹ hiền thương con : "Có người mẹ nào quên được con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau ? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ" (Is 49,15). Ngài còn là người cha nhân hậu, bao dung, ra tận đầu làng ngóng bóng đứa con trai hoang đàng, tự ý đòi chia gia tài, bỏ cha, bỏ nhà, đi xa ăn chơi trác táng cho đến khi trắng tay, thân tàn ma dại, phải trở về. Thế mà, "khi anh ta còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để" (Lc 15,20). Người con hoang đàng ấy cũng đã chuẩn bị lời thú tội, tính sổ với cha, nhưng ngoài suy tính, sắp xếp của anh, người cha nhân từ đã không cho con cơ hội nói hết lời thú tội, nhưng bảo các đầy tớ: "Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê béo làm thịt ăn mừng ! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy" (Lc 15, 22-24).
   Tôi không dám nghĩ đến diễm phúc được mặc áo mới, đeo nhẫn qúy, mang giầy đẹp, mà chỉ dám xin Chúa xót thương nhắm mắt làm ngơ cho tôi lẻn vào thiên đàng như người trộm lành ở vào phút chót cuộc đời. 
   Nhưng lý do sau cùng và cũng là niềm hy vọng lớn của tôi, đó là Chúa đến trong thế gian không phải để luận phạt, vì Ngài là Đấng Cứu Độ, nhưng để thương xót chữa lành, cứu sống: "Ta đến không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian" (Ga 12,47) bằng chứng là "Ngài đã bỏ chín mươi chín con chiên ngoài đồng để đi tìm cho kỳ được con chiên bị lạc mất" (Lc 15,4).
     Trong thinh lặng của tâm hồn, buổi chiều cuối năm, khi tính sổ với Chúa, tôi đã đi từ lo lắng, sợ hãi, thất vọng đến trông cậy, tín thác, bình an, vì có Chúa giáng sinh chỉ cho tôi con đường, con đường Chúa đến với tôi trong chính thân phận tội lụy, nhơ nhớp, bất xứng. Ngài cũng chỉ cho tôi con đường đến với Ngài, dù Ngài là Đấng cực thánh, và "con người không thể xem thấy tôn nhan Ngài mà có thể sống được" (Xh 33,20), và tôi là kẻ có tội. Con đường hai chiều ấy chính là Lòng Thương Xót: vì lòng Thương Xót, Thiên Chúa đến cứu độ, với lòng thương xót anh em mình, con người nhận được lòng Chúa xót thương.
     Thực vậy, "đời sau" luôn là nỗi sợ lớn của mỗi người, cho dù có che đậy, ngụy trang khéo léo thế nào đi nữa, bởi nó đeo đẳng suốt cuộc đời, nhất là khi cuộc đời ngày càng xế bóng. Nỗi sợ ấy chỉ có thể được lấy đi nhờ lòng thương xót và từ bàn tay cứu độ của Đức Giêsu -Thiên Chúa làm người.
     Vâng, lậy Chúa, con xin cảm tạ và ngợi khen Chúa, vì trong giờ tính sổ với Chúa, Chúa đã thương an ủi và dạy con: "Không có lòng thương xót và ơn cứu độ của Cha, cũng như thiếu sự cộng tác của con là lòng thương xót anh em mình, như điều kiện cần thiết, nỗi lo sợ đời sau của con sẽ mãi mãi tồn tại, vì không có gì bảo đảm nỗi sợ ấy sẽ không thành sự thật, một sự  thật đời đời bất hạnh cho con".
Jorathe Nng Tím