https://www.youtube.com/watch?v=qc93UWA1NSY
Sai lầm lớn của người kiêu ngạo là nghĩ tự mình làm nên tất cả, một mình “tự lực cánh sinh”, tự sức mình “công thành danh toại” mà không cần đến ai.
Sai lầm lớn của người kiêu ngạo là nghĩ tự mình làm nên tất cả, một mình “tự lực cánh sinh”, tự sức mình “công thành danh toại” mà không cần đến ai.
Người kiêu ngạo vô tình hoặc cố
tình quên một điều quan trọng: ngay cả được nhận là “tự lực tự cường, tự lực
cánh sinh, tự biên tự diễn, tự tung tự tác”, ít nhiều họ cũng đã dựa vào danh
tánh, danh giá, danh dự, danh xưng, danh nghĩa, danh thế của ông bà, cha mẹ,
gia đình, tổ chức, trường lớp, hội đoàn, quốc gia, dân tộc, Giáo Hội vì con người
không bẩm sinh toàn năng và không luôn luôn, mãi mãi tự mình làm được mọi sự.
Con người chỉ nhất thời thành công và một thời vang bóng, chứ chẳng ai “vạn đại”
huy hoàng và “thiên thu” vinh hiển; vì thế đã có nhiều thời lận đận và một phần
đời “bóng ẩn, vô danh”.
Lận đận, không tự mình đứng vững
trên đôi chân, nên mượn chân người khác để bước tới. Lao đao, không tự vượt được
sóng gió cuộc đời nên nắm sào của người khác để khỏi chìm xuồng, chết đuối. Vô
danh, không ai biết đến nên mượn “danh thiếp”, xin thư giới thiệu, cần đôi lời
ngỏ đẩy đưa, đánh bóng của người khác để được thành người “hữu danh với đời”.
Và hiện tượng bóng tan, hình tàn, ảnh chụp phôi pha, nhạt nhoà phải nhờ cậy
danh thế rực rỡ, danh thiếp “nhiều hàng” của người khác để tái chế, phục hồi,
“bo” lại “cái tôi” là câu chuyện của đời thường rất bình thường và không ai ngạc
nhiên khi thấy ta và người, người cùng ta đều nhốn nháo, không mệt mỏi nhân
danh người này người nọ, nhân danh thế lực này thế lực kia, nhân danh đoàn thể,
tổ quốc, tôn giáo, nhân danh các thứ lý tưởng, các thứ giá trị hữu hình, vô
hình, nhân danh những ý niệm trừu tượng, tôn giáo, thần thánh, nhân danh cả
Thiên Chúa, địa ngục, luyện ngục, thiên đàng trong sinh hoạt hàng ngày giữa
nhau. Nhân danh người khác, nhân danh một giá trị, nhân danh một lý tưởng, nhân
danh một thực thể siêu hình, thiêng liêng là một việc mà người ta làm nhiều và
dễ dàng đến độ nhiều khi chính đương sự cũng không ý thức mình đang làm cái việc
“mượn tiếng, nhân danh” bừa bãi ấy.
Như
thế, nhân danh một người là mượn uy tín, cậy uy lực, nhờ uy quyền của người ấy;
nhân danh một tổ chức là núp bóng vinh quang của tổ chức ấy; nhân danh một Đấng
thiêng liêng là thần phục, tôn thờ, tín thác, cậy trông vào Đấng ấy và đương sự
nhân danh tự nhận mình bé nhỏ, yếu đuối, cần được giúp đỡ, chở che trước người,
trước tổ chức, trước Đấng mình nhân danh. Cầm tấm danh thiếp của ông chủ tịch ủy
ban đến gặp phòng nhân sự, ta dựa vào uy tín của ông chủ tịch để có được một chỗ
làm mà ta biết trước: nếu tự mình đến, chắc chắn sẽ bị từ chối với đủ mọi lý
do. Đến gặp Bề Trên với danh nghĩa cộng đoàn giáo xứ sẽ dễ dàng được việc hơn “một
mình chiếc bóng đơn côi”. “Con ông cháu cha” hay anh chị của dì phước khi có việc
vẫn sáng giá, nặng cân hơn những anh chàng, cô nàng “vô danh tiểu tốt”, không
gia thế cũng chẳng vai vế trong xứ đạo. Xã hội là cộng đồng liên đới, nên việc
tốt, tiếng thơm của cha mẹ tạo cho con cái một vị thế được yêu mến, uy tín của
một tổ chức tạo tiếng nói cho thành viên và mọi người được hưởng hoa trái thơm
ngọt của người khác một cách bình thường, tự nhiên.
Đường
vào khổ nạn của Đức Kitô bắt đầu “ngon lành” bằng cuộc đón rước hoành tráng của
đám đông khi họ hoan hô Ngài là “Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến” (Ga 12,13),
nhưng lập tức có dấu hiệu “chẳng lành” khi các Thuợng tế và Hội Đồng Kỳ Mục được
nhóm họp bất thường để nhân danh Thiên Chúa, nhân danh trật tự đạo đức, nhân
danh lề luật Môsê, nhân danh lợi ích chung của dân tộc, nhân danh tương lai của
con cháu Israel ra quyết định khẩn cấp triệt hạ Đức Kitô dưới chiêu bài hợp
tình hợp lý: “Thà một người chết cho toàn dân được nhờ” (Ga 12,48-50), để rồi
những cây số tiếp theo trên đường Thánh Giá đã thêm nhiều “nhân danh” khác càng
lúc càng “chẳng lành”, đặc biệt “nhân danh” của Thượng tế Caipha: “Nhân danh
Thiên Chúa hằng sống, ta truyền cho anh phải nói: anh có phải là Đấng Kitô, Con
Thiên Chúa không?” Thượng tế nhân danh Thiên Chúa hạch hỏi Đức Kitô nhưng chủ yếu
là kết tội Đức Kitô “phạm thượng” khi nhân danh Thiên Chúa.
Ngài có tên là Thiên Chúa (Tv
67,5) và danh tánh Ngài là Thánh (Ed 36,23), là Vinh Quang, Vinh dự (Tv 8,2;
88,3; 134,13), là Sức Mạnh toàn năng (Tv 19,8), là Cứu Nguy, Phù Hộ (Tv 123,8),
là Thương Xót chở che (Tv 19,2), là Bao La, Vĩ Đại (Ml 1,11), là Vĩnh Cửu, đời
đời (Tv 134,13) và vượt trên hết các tên (Ep 1,21).
Danh Ngài phải được kính sợ (Tv
60,6), yêu mến (Tv 5,12; 60,37) và loan truyền (Tv 21,23; Ga 17,6; Rm 9,17).
Danh Ngài phải được ca ngợi, chúc tụng (Tv 7,18) và nài xin, khẩn cầu (St 4,26;
Rm 10,13). Không ai được xúc phạm, khinh mạn, làm ô uế Danh Ngài (Lv 22,32; Gr
34,16) hay lấy Danh Ngài mà thề nguyền bừa bãi (Lv 19,12). Hãy nhân danh Ngài
mà giảng dạy (Gr 26,16), nhân danh Ngài mà nói tiên tri (Gr 14,15), chúc phúc (
2S 6,18), thanh tẩy (Mt 28,19; Cv 2,28), nhân danh Ngài mà xua đuổi tà thần (Lc
9,49); Mc 16,17), chữa lành bệnh tật (Cv 3,6; 4,9-10).
Đó là “nội dung” Danh Thiên Chúa
và những đòi hỏi đối với Danh Ngài. Đó cũng là kết quả nhận được từ Danh Ngài.
Nhưng thực tế Danh thánh ấy đã bị con người thi nhau bôi nhọ, lạm dụng.
1.
Con
người đã “nhân danh Thiên Chúa” là Tình yêu như bình phong che giấu ác tâm và
hành động thiếu bác ái, từ tâm đối với anh em. Khi muốn tiêu diệt Đức Kitô, các
thượng tế, luật sĩ đã tỉnh bơ nhân danh Thiên Chúa và tự động nhân danh quyền lợi
của Thiên Chúa. Danh Thiên Chúa được sử dụng như lá chắn che đậy âm mưu kết tội
người vô tội, lên án người công chính, chỉ vì ghen tức, hận thù và vì người ấy
không thuộc tổ chức, đoàn thể, không theo đường lối, chủ trương của mình. Không
tìm được tội, không kiếm ra lỗi nơi Đức Kitô, các ông phải nại đến Thiên Chúa ở
trên cao và rất xa, mượn danh Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng, không nói gì,
không phản ứng gì trước những hành động vấy máu người vô tội. Các ông biết, chỉ
có cách nhân danh Thiên Chúa thinh lặng mới bịt được miệng đám đông và những
người ủng hộ Đức Kitô; chỉ có cách nhân danh Đấng vô hình, mới chặn được những
phản ứng của những người sống hữu hình; chỉ có cách nhân danh Thiên Chúa ở trên
trời, mới thực hiện được những ý đồ đen tối, ác ôn ở dưới đất; chỉ có cách nhân
danh Thiên Chúa nhân hậu mới kiếm cho mình chút uy tín và dáng dấp hiền lành hầu
dụ dỗ, lừa bịp dân chúng và dẫn họ vào mê lộ hận thù, ghen ghét.
Các
ông đã nhân danh một Thiên Chúa vắng mặt để lên án một Thiên Chúa có mặt, đã
nhân danh một Thiên Chúa công bình để kết tội một Thiên Chúa công chính, đã
nhân danh một Thiên Chúa yêu loài người để xử tử một Thiên Chúa làm người. Khi
nhân danh Thiên Chúa, các ông không coi mình là người nhỏ bé, thụ tạo mong manh
trước Đấng toàn năng mà các ông phải cần đến; trái lại, các ông đã đặt danh
Ngài dưới sự điều khiển của mình khi “tác yêu tác quái” và làm ô uế danh Ngài bằng
chủ trương hận thù, hành động hận thù, tiếp sức cho hận thù.
Hận thù không là tình yêu như bóng
tối không là ánh sáng, nên đâu có hận thù ở đó không có tình yêu, đâu có bóng tối,
ánh sáng không có mặt. Khi nhân danh Thiên Chúa là tình yêu để trả thù con người,
nhân danh Thiên Chúa là tình thương để cưỡng chế con người, nhân danh Thiên
Chúa an bình để gieo rắc tao loạn, con người đã xúc phạm trầm trọng Danh thánh
Chúa, vì đi ngược đòi hỏi của danh Ngài.
Là
tình yêu, Thiên Chúa chỉ cho mượn danh Ngài để yêu thương, cho dùng danh Ngài để
an ủi, cho lấy nhân danh Ngài để xây dựng một thế giới huynh đệ, bác ái, nhân bản.
Ngài không chấp nhận bất cứ ai cướp danh Ngài mà kêu gọi cô lập, đàn áp, trấn lột,
hành hạ người khác, vì hạnh phúc được yêu thương của người khác là vinh quang của
danh Ngài, niềm vui được an ủi, sẻ chia của người khác là sức mạnh của danh
Ngài, hoan lạc được tha thứ, cứu độ của người khác là ơn sủng từ danh Ngài.
Vì thế, khi ai đó nhân danh Đức
Kitô - Thiên Chúa để bắt người khác phải khổ đau, bất hạnh, ép người khác phải
khốn đốn, gian lao, đẩy người khác vào đường cùng, ngõ bí, người đó không phải
đến từ Thiên Chúa, không được Thiên Chúa sai, không là sứ giả loan báo Tin Mừng
Cứu độ. Một ai đó tự tiện nhân danh Đức Kitô – Thiên Chúa để căm phẫn trừng phạt,
điên cuồng nghiền nát, phẫn nộ đánh gục người khác, dù họ là ai: đối phương kẻ
thù hay người không cùng chính kiến, đường lối, phe nhóm là mạo danh Thiên
Chúa, giả danh Đức Kitô, Đấng đến không để hủy diệt, dập tắt, nhưng để yêu
thương, băng bó, chữa lành, thứ tha, giao hoà.
Người thuộc về Thiên Chúa sẽ nhân
danh Thiên Chúa để chúc phúc, ban bình an. Người yêu mến Thiên Chúa sẽ nhân
danh Thiên Chúa để đỡ người vấp ngã dậy, chữa lành kẻ tật bệnh (Cv 3,6). Người
của Thiên Chúa sai đến sẽ nhân danh Thiên Chúa an ủi kẻ âu lo, thứ tha người có
tội (1Ga 2,12), bênh đỡ người yếu đuối, quả phụ, mồ côi. Người có Thiên Chúa sẽ
ký thác đời mình vào danh Chúa để như Phêrô, Gioan: “Vàng bạc tôi không có,
nhưng tôi cho bác những gì tôi có. Đó là: nhân danh Đức Giêsu Kitô, người làng
Nazareth, tôi truyền cho bác đứng dậy mà đi” (Cv 3,6). Hai tông đồ của Đức Kitô
đã nhân danh Đức Kitô ban cho bác hành khất bị què từ lúc mới sinh quà tặng lớn
lao, lớn hơn ước mơ của bác, đó là được đứng dậy đi. Và dấu chỉ duy nhất để nhận
ra ai là người của Thiên Chúa chính là việc làm bác ái, lời dạy yêu thương của
người ấy khi họ hành động “nhân danh Đức Kitô”.
Cũng
vậy, ma quỷ không thể nhân danh Thiên Chúa vì Hận Thù không thể đi với Tình
Yêu, nên ai nhân danh Thiên Chúa Yêu Thương để phục vụ Hận Thù, người ấy không
thuộc về Thiên Chúa, nhưng mạo danh Thiên Chúa phục vụ ma quỷ. Các thượng tế,
luật sĩ Do Thái đã nhân danh Thiên Chúa để giết Thiên Chúa. Các ông đã lấy danh
Thiên Chúa mà thi hành kế hoạch phi nhân, gian ác của thần dữ. Điều đáng trách
nơi các ông là sự lạm dụng triệt để danh Thiên Chúa cho những việc làm thiếu từ
tâm, bác ái, chống lại chính Thiên Chúa là Tình Yêu.
2. Nhân danh Thiên Chúa để áp đảo sự thật và tiêu diệt chứng
nhân sự thật. Khi Nicôđêmô lên tiếng giữa buổi họp Hội Đồng: “Lề Luật của chúng
ta không kết án ai khi chưa tra hỏi người ấy trước và chưa biết việc người ấy
làm”, ông đã bị cả đám Biệt Phái phản đối dữ dội: “Cả ông nữa, ông cũng là người
xứ Galilê? Hãy mở Kinh Thánh mà xem, có tiên tri nào xuất hiện từ Galilê bao giờ”
(Ga 7,51-52).
Họ nhân danh Lời Chúa để “cả vú lấp
miệng em” trấn áp một sự thật mà họ không muốn đối diện, đó là: phải điều tra
thật kỹ lưỡng trước khi kết tội một người, nếu không sẽ kết án oan uổng người
vô tội. Sự thật này các ông biết, nhưng cố tình tránh né, trốn chạy bằng cách
to miệng nhân danh Lời Chúa trong Kinh Thánh để xóa bỏ sự thật của tội ác mà
các ông đang quyết tâm làm cho bằng được. Hận thù làm tăm tối trái tim và ánh
sáng chân lý không đến được tâm hồn độc địa, gian ác. Để biện minh cho hành động
phủ nhận sự thật, các ông đã nhân danh sự thật của Lời Chúa để bịt miệng chứng
nhân sự thật. Nicôđêmô đã không lên tiếng được vì sự thật đã bị bóp cổ chết tức
tưởi khi cả đám sấn sổ chửi bới, nguyền rủa, thoá mạ, vì ông đã bênh vực cho Sự
Thật là Đức Kitô.
Thượng
tế Caipha cũng nhân danh quyền lợi của đền thờ Thiên Chúa để dẹp ngang sự thật
của Đức Kitô khi Ngài trả lời ông và đơn phương kết tội Ngài là “phạm thượng và
không cần thêm chứng cớ gì nữa” khi Ngài khẳng định: Tôi là Con Thiên Chúa (Mt
26,60-65). Sự thật bị phủ đầu, “bề hội đồng” cách man rợ, phi nhân khi gian dối
được nước tung hoành. Con người gian đến độ nhân danh Nhà Chúa để giết Thiên
Chúa; con người nói dối đến độ đem chính Thiên Chúa là Thiên Chúa của sự thật
làm cầu chứng cho lưu manh, xảo quyệt. Kết quả là: “Tôi đến nhân danh Thiên
Chúa, Cha tôi thì các ông không đón nhận, nhưng nếu có người khác lấy danh
nghĩa mình mà đến thì các ông lại tiếp rước. Thật tình, các ông chỉ tìm vinh
quang cho nhau, còn vinh quang đến từ một mình Thiên Chúa thì các ông lại chối
bỏ!” (Ga 5,43-44). Và Đức Kitô đã lắc đầu thất vọng trước ngoan cố điêu ngoa của
họ (Ga 5,45-47).
Thiên
Chúa là Sự Thật, nhưng sự thật thường xuyên bị người ta nhân danh chính Thiên
Chúa mà bóp méo, xuyên tạc. Miệng lưỡi con người độc như nọc rắn và lưỡi ấy lại
không xương nên đã bao nhiêu sự thật, bao nhiêu chứng nhân của sự thật đã nhận
về cho mình số phận bẽ bàng, chua cay, bạc bẽo. Sự thật đã không ngừng bị chính
những người tự nhận là người của Thiên Chúa, người làm việc cho Thiên Chúa
“nhân danh Thiên Chúa” để bưng bít, phong toả, cấm vận, bóp chết sự thật. Không
thiếu những người tự xưng là chứng nhân của Thiên Chúa Sự Thật đã nhân danh
Thiên Chúa để bôi bác, miệt thị, xỉ nhục, hành hạ những chứng nhân đích thực của
Sự Thật, chỉ vì những người này đã không chịu a dua, đồng loã cắt xén, tô vẽ lại
sự thật như họ muốn để phục vụ những ham hố ích kỷ.
Đức Kitô là Sự Thật, nên ai yêu mến
và phục vụ sự thật, người ấy có Thiên Chúa. Cũng như Tình Yêu, Sự Thật là dấu
hiệu để nhận ra ai là người của Thiên Chúa khi họ nhân danh Thiên Chúa. Người
nhân danh Thiên Chúa để gạt bỏ sự thật, không đối diện sự thật, không trao đổi
để cùng tìm ra sự thật, không lắng nghe sự thật, không tôn trọng sự thật chắc
chắn không thể là người yêu mến sự thật; và nếu không yêu mến sự thật, họ cũng
không yêu mến Thiên Chúa, Đấng “là Đường, là Sự Thật” (Ga 14,16). Họ như những
người Biệt Phái giả hình, nói một đàng làm một nẻo, tâm địa thì độc ác mà bề
ngoài thì chu chắm, nghiêm trang, thánh thiện. Sự thật là ánh sáng, ánh sáng
chiếu sáng tâm tư bên trong cũng như soi sáng hành động, đời sống bên ngoài.
Bóng tối không đi với ánh sáng, nên có khéo “nhân danh Thiên Chúa” đến cỡ nào,
người không yêu mến sự thật cũng sẽ đánh rơi mặt nạ chứng nhân sự thật và gian
dối sẽ lộ diện nguyên hình.
3.
Họ
đã nhân danh Thiên Chúa Sự Sống để giết chết con người. Khi nhân danh Thiên
Chúa hằng sống để lên án tử cho Đức Kitô, các vị trong Hội Đồng Kỳ Mục Do Thái
đã cướp quyền định đoạt sống chết nơi con người của Thiên Chúa. Khi nhân danh
tương lai “sống còn” của con cái Israel, nhân danh tiền đồ của dân riêng Thiên
Chúa (Ga 18,4) để lấy Đức Kitô làm “dê tế thần”, các ông đã phủ nhận sự sống
như giá trị tuyệt đối nơi con người, nơi mỗi người mà bất kỳ ai đều không có
quyền xâm phạm. Các ông thừa biết: luật Môsê cấm giết người, nhưng người cần giết
lúc này vì quyền lợi của phe nhóm các ông và lúc này đang có người cần giết để
bảo đảm vị thế lãnh đạo của các ông là Đức Kitô, đối thủ đáng ngại và cần phải
khử càng sớm càng tốt. Không tìm được lý do để truy tố, họ đành mượn đến danh
Thiên Chúa hằng sống để giết chết Thiên Chúa vô tội, đành nại đến “sự sống giả
sử” của miêu duệ còn xa trong tương lai để khẩn trương giết chết một người đang
sống, đành nhân danh “máu giả tưởng” của con cháu để tức khắc làm đổ máu người
ngay lành, công chính (Mt 27,25).
Sự sống đã bị con người nhân danh
“Thiên Chúa hằng sống” lấy mất đi và bao lâu con người còn bị sự chết thống trị
trái tim, còn để sự chết chiếm đóng tâm hồn, bấy lâu sự sống con người còn bị
đe doạ, khủng bố.
Từ ngày 11 đến ngày 19 tháng ba
năm 2012, nước Pháp rúng động vì anh Mohammed Merah, 23 tuổi, người Pháp gốc
Algêri. Anh đã “nhân danh Đức Alla, thiên chúa của Hồi giáo” bắn chết bảy người,
trong đó có em Myriam Monsonego 7 tuổi, hai em Arieh 4 tuổi, Gabriel 5 tuổi và
cha của hai em là Jonathan Sandkler 30 tuổi, người Do Thái trước cổng trường
Ozar Hatorah tại thành phố Toulouse, miền nam nước Pháp. Anh đã nhân danh đức
Alla, thiên chúa của anh để giết những người không hề ân oán, hận thù hay quen
biết anh. Anh giết họ một cách man rợ chưa từng thấy khi lạnh lùng quay phim những
nạn nhân đang quằn quại đau đớn dưới mũi súng tàn nhẫn của anh với mục đích sẽ
tung lên mạng những thước phim ngập máu để tự tuyên dương thành tích và khơi dậy,
củng cố lòng hận thù đối với những dân tộc không đi theo tôn giáo “bạo lực” của
anh. Một tín đồ nhân danh thiên chúa của mình để giết người vô tội chỉ có thể
được gọi là một tên sát nhân điên cuồng, một quái vật hơn là một tín đồ chân
chính, vì nếu có một thiên chúa khát máu, kêu gọi tín đồ giết người thì thiên chúa
ấy sẽ chỉ là thiên chúa của hận thù và tên của thiên chúa ấy sẽ là Ác Quỷ. Nếu
có một tôn giáo chủ trương dùng bạo lực để truyền giáo, dùng súng đạn để thống
lĩnh, bá chủ, dùng khủng bố để tiêu diệt những người không theo mình thì tôn
giáo ấy quả thực là tai hoạ kinh hoàng của nhân loại và tín đồ của tôn giáo ấy
thực là những đồ tể khát máu.
Vì
thế, không thể có người tín hữu nhân danh Đức Kitô để làm hại sự sống của mình
và người khác. Không thể có người của Thiên Chúa nhân danh Chúa để quảng bá một
chương trình “phò sự chết”, ủng hộ kế hoạch hủy diệt sự sống. Người theo Đức
Kitô, Đấng là Sự Sống phải là người hết lòng phục vụ sự sống con người, cổ võ nền
văn minh sự sống và làm tất cả những gì có thể làm để gìn giữ, bảo vệ, níu kéo
sự sống con người. Người tông đồ của sự sống xác tín rằng: một mạng người mang
giá trị của cả nhân loại và giá trị sự sống là một giá trị tuyệt đối, không có
gì thay thế được.
Tuần
Thánh có những “nhân danh” để thuận lợi vu oan, những “nhân danh” để nhẹ nhàng
khép lại hồ sơ truy tìm sự thật, những “nhân danh” để mau chóng bức tử người vô
tội. Đức Kitô là nạn nhân của những “nhân danh” ấy khi người ta đã say sưa nhân
danh Thiên Chúa, công trình của Thiên Chúa, Lời Thiên Chúa, dân Chúa, nước Chúa
để cố đẩy đưa Con Thiên Chúa lên thập tự. Ngài đã bị kết án đóng đinh và chết
vì những nhân danh giả dối, mạo nhận của con người.
Ước gì, danh Đức Kitô, Thiên Chúa
bị đóng đinh sẽ không bị chúng ta nhân danh để đóng đinh anh em, nhưng trong
danh Ngài, tất cả chúng ta được giải phóng và giao hoà với Thiên Chúa và mọi
người.