https://www.youtube.com/watch?v=e6ALnFgqNSc
b. Biết người khác cũng luôn cần đựơc xót thương
Nếu Thiên Chúa là Tình Yêu và Thiên Chúa thánh
thiện vì Ngài xót thương ; nếu Kitô giáo
là Đạo của Đức Giêsu Kitô,
Đấng đã đến trong thế giới vì thương xót con người và lấy
chính mạng sống để cứu độ con người vì xót thương ; nếu tất cả các giới răn mà người Kitô hữu phải tuân
giữ được gồm tóm vào một đòi hỏi duy nhất với hai mặt là yêu mến
Thiên Chúa và thương xót đồng loại (Mt 22,37-40); nếu con đường Đức Giêsu đã vạch
ra cho các môn đệ và những ai muốn theo Ngài là đường Yêu Thuơng : yêu thương đến
cùng, yêu thương đến hy sinh mạng sống cho người mình yêu (Ga 15,13) ; nếu hiến chương Nước Trời được dành
cho những người phải khóc vì xót thương người khác, phải buồn sầu vì xót
xa nỗi đau thân phận người khác, phải chịu phiền toái, vất vả, nhục nhã, vu khống,
truy lùng, bách hại vì mưu tìm hoà bình, công chính và hạnh phúc cho đời người
khác (Mt 5, 1-12); nếu số phận đời sau của
mỗi người theo như Đức Tin Kitô giáo dậy sẽ tùy thuộc lòng thương xót mà mình đã
thực hiện hay bỏ qua khi còn sống ( Mt 25, 31-46); nếu chỉ thực sự là người có Đạo
khi lấy yêu thương là dấu chỉ và huy hiệu “độc
nhất vô nhị” của người Kitô hữu (Ga
13,35), thì thiếu lòng thương xót, trống
vắng yêu thương sẽ là một nguy cơ lầm đường lạc hướng, một tai hoạ khủng khiếp,
một thất bại ê chề, một mất mát thảm thương
đối với người có Đạo. Do đó, thiếu lòng thương xót, đời người Kitô hữu sẽ không còn lẽ sống, mục đích, ý nghiã và động
lực để yêu mến Chúa và phụng sự Chúa trong mọi người. Chính vì thế, Đức Giáo Hoàng
Phanxicô đã không do dự đặt tên cho tình trạng “thiếu lòng thương xót nơi người có Đạo” là nguy cơ
trầm trọng, bên cạnh nguy cơ say mê tiền của, mà người viết đã chia sẻ với
các bạn tuần trước.
Thực ra, thiếu lòng thuơng xót không chỉ là nguy cơ đối với người có Đạo
hay khép kín trong Giáo Hội Công Giáo, nhưng bất cứ ai không có lòng thương xót
tha nhân đều mang lại hậu qủa tiêu cực cho xã hội loài người, bởi thương xót người
khác là đòi hỏi tự nhiên của luật tự nhiên. Lương tâm
mỗi người luôn nhắc bảo, canh chừng, thôi thúc lòng thương xót được gọi
chung dưới những tên như “nhân ái, tình người, nhân đạo, lòng tốt”.
1. Ý Nghiã Của Lòng Thương Xót
Để hiểu hơn ý nghiã của lòng thương xót,
chúng ta cùng nhau phân tích từ “Thương
Xót” của tiếng latinh. MISERICORDIA được làm thành từ Miseria là “cơ cùng, khốn nạn” và Cordia có nghiã “ở trong trái
tim”. Theo ý nghiã đích thực của nguyên ngữ
latinh, Misericordia -
Thương Xót không thể hiểu là thương hại, vì thương xót không là hành
động bố thí tình cảm, cũng không là thái độ tự mãn phân phát yêu thương của người
trên cho người dưới, thí ban chút tình của
ông chủ cho đầy tớ như những mảnh vụn từ chiếc bánh tình người nhạt nhẽo từ tay người lớn trên cao ném xuống cho
người thấp cổ bé miệng đang ngắc ngoải chờ chết tận vực sâu đói khổ, nhưng thương
xót là cúi xuống, qùy xuống, hạ thấp mình
xuống ngang người ta xót thương để có thể
vực họ lên, đỡ họ dậy, băng bó vết thương loang máu trên thân xác nhừ nát vì
roi đòn của họ. Thương xót là mang lấy tất
cả sự thật của thân phận đôi khi rất bẽ bàng, kinh tởm của người đang cần được
xót thương; là đón nhận trọn niềm đau nỗi
khổ, vất vả nhọc nhằn, thất bại tang thương, yếu đuối tội lụy của người mình thương
xót trong riêng tư thầm kín, nhưng vô vàn
lắng đọng, thiết tha của trái tim mình. Thương xót ai như thế là gánh trên vai
mình, mang trong tim mình, gắn vào cuộc đời mình những bất hạnh, khốn nạn của
người mình xót thương. Và thương xót ai
chính là ngày đêm thao thức, băn khoăn,
lo lắng, ước mơ và miệt mài hết mình tìm
kiếm hạnh phúc cho người mình thương xót.
Vì thế, lòng thương xót luôn làm người xót thương nặng lòng, nặng vai, nặng đầu,
nặng gánh bởi “gánh đời” của
người được thương xót chẳng mấy khi không trĩu nặng.
2. Lòng Thương Xót của Thiên Chúa
a. Yêu đến cùng
Đức Giêsu được thánh Gioan Tẩy Giả giới
thiệu lần đầu tiên với đám đông
: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh
tội trần gian” ( Ga 1,29). Và Con Chiên gánh tội đó đã không chỉ gánh mà
còn hiến mạng sống mình trên thánh giá để làm chứng lòng xót thương vô bờ bến và
tình yêu đến cùng của Thiên Chúa (Ga
13,1). “Đến cùng” không chỉ được hiểu là tận cùng của thời
gian, mà còn phải hiểu là “vô điều kiện”.
Đức Giêsu đã yêu thương đến giây phút cuối cùng và xót thương vô điều kiện:
“Yêu đến cùng” môn đệ Phêrô nên đã đợi chờ để âu yếm ngước nhìn người môn đệ nhiệt tình, nóng
nẩy ở đường cùng phản bội (Lc 22,61); yêu đến cùng Tôma, nên đã trở lại để ban
bình an cho ông ở đường cùng cứng cỏi,
chai đá (Ga 20, 27); yêu đến cùng người đàn bà bị bắt qủa tang đang ngoại tình để
cứu bà một “bàn thua trông thấy”
ở đường cùng sự sống ( Ga 8,1-11); yêu đến cùng người phụ nữ trắc nết, lăng loàn
để đổi mới chị với bình an đích thực của Thiên Chúa ở đường cùng vong thân (Lc
7,36-47) ; yêu đến cùng đứa con hoang đàng “phá
gia chi tử” để trả lại cho chàng nghịch tử quyền làm con đã mất ở đường
cùng vong ân bội nghiã (Lc 15,11-32); yêu đến cùng Dakêu để đem ơn cứu độ cho
gia đình ông ở cuối đường bất chính (Lc
19,1-10); yêu đến cùng hai môn đệ trên đường Emmau để đem lại cho họ hy vọng ở đường
cùng tuyệt vọng (Lc 24,13-35); yêu đến cùng những người qùe quặt, đui mù, câm điếc,
bị qủy ám để ban lại cho họ sức khỏe và niềm vui ở đường cùng bất hạnh (Mt 4,
23-24); yêu đến cùng những người nghèo khổ bị bỏ rơi, kỳ thị để họ được ủi an ở
đường cùng bạc phước; yêu đến cùng những người ngoại đạo để họ nhận ra dung mạo
dễ thương, xót thương của Thiên Chúa ở cuối đường chân lý (Mt 8, 5-13; Ga
4,7-25); yêu đến cùng những người ngoại
quốc để họ thấy mình không còn là người xa lạ trong gia đình của Thiên Chúa; yêu
đến cùng người tử tội cùng bị đóng đinh bên phải để Nước Trời mở toang cho anh ở
đường cùng hình phạt (Lc 28,39-43); yêu đến cùng người bạn Ladarô và gọi anh ra
khỏi mộ phần lạnh lùng, tăm tối ở đường cùng hủy diệt (Ga 11,17-44); yêu đến cùng
cả những người vô ơn, đả đảo, lên án, tra tấn, đóng đinh mình bằng chạy tội cho
họ với “lý do trắng án” : “Lậy cha,
xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,24), ở đường cùng bạo lực phi nhân.
b. Tình yêu của mẹ hiền
Đức Giêsu đã yêu thương đến cùng bằng một trái tim mang hết những thiếu
sót, yếu đuối, tật bệnh, thất vọng, khổ đau,
buồn chán, lỗi lầm, tội lụy của mỗi người chúng ta. Trái tim của Ngài là trái
tim của người mẹ chỉ được dựng nên để yêu thương, một tình yêu
hiện diện, quan tâm, trìu mến, nhẫn nại, vô điều kiện, nhưng không và đến
cùng. Ngôn sứ Isaia đã diễn tả tình yêu ấy như sau:
“Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình
hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì
Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ. Hãy xem, Ta đã ghi khắc ngươi trong lòng bàn tay Ta” (Is
49,14-16). “Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng
ẵm bên hông, nâng niu trên đầu gối. Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các
ngươi như vậy” (Is 66,12-13).
Như thế, lòng thương xót thực sự là căn
tính của người Kitô hữu, người có Đức Kitô, thuộc về Đức Kitô, đồng hình đồng dạng
với Đức Kitô, vì Đức Kitô là dung mạo của Chúa Cha giầu lòng thuơng xót, là hiện
thân của Thiên Chúa là Tình Yêu Xót thương, và nhất là căn tính của Thiên Chúa
trong Đức Giêsu Kitô chính là Tình Yêu,
như thánh Tông Đồ Gioan đã định nghiã : “Ai không yêu thương thì không biết Thiên
Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,8).
Chúng ta phải xác tín căn tính Tình yêu nơi Thiên Chúa, nếu không chúng
ta sẽ lẫn lộn giữa căn tính Tình Yêu và những đặc tính khác của Thiên Chúa như công bình, toàn năng, thông biết mọi sự,
thưởng phạt công minh...Tuy là đặc tính,
nhưng bên cạnh căn tính, đặc tính vẫn phụ
thuộc và thứ yếu. Căn tính không thể thay đổi, và luôn giữ vai trò tất yếu, chính
yếu, nên Thiên Chúa không thể là gì khác ngoài Tình Yêu. Ngài có những phụ tính
như công bằng, chính trực, thông biết vô cùng, toàn năng vô song, nhưng Thiên
Chúa không là những phụ tính đó, Ngài chỉ
là Tình Yêu. Curng vì căn tính của Thiên Chúa là Tình Yêu, nên Thiên Chúa hoá
giải tất cả những gì nại đến công bằng, thưởng phạt, nghiêm minh trong tình yêu
và với tình yêu. Nhờ thế mà tội nhân được thương xót, phạm nhân được tha bổng,
hối nhân được thứ tha, ác nhân nhận được ơn đổi mới, trở về.
Tóm lại, không thể là Kitô hữu nếu không có Đức Kitô trong đời, và không
thể có Đức Kitô nếu thiếu lòng thương xót. Muốn có Đức Kitô, người Kitô hữu phải
có lòng thương xót; muốn có Đức Kitô đồng hành, phải đi với Ngài trên đường yêu thương; nếu muốn Đức Giêsu ở cùng, nơi đó phải
có lòng thương mến, cảm thông, bởi “đâu
có tình yêu và bác ái, ở đó có Thiên Chúa
- Ubi Caritas et Amor , Deus ibi est”. Trái ngược lại, nơi nào không có
tình yêu, trái tim nào thiếu lòng thương xót, gia đình nào phủ nhận tình nghiã,
cộng đoàn nào chối từ bác ái huynh đệ thì Thiên Chúa không hiện diện, và cạn kiệt
ân sủng là sức sống thần linh của Ba Ngôi Thiên Chúa. Chân lý này không
thể hiểu vu vơ theo kiểu “đánh lận con đen”, hay mập mờ ngụy biện, hầu ngụy
trang một nghịch lý mâu thuẫn tận gốc rễ, khi nghĩ rằng không yêu thương thì
Thiên Chúa vẫn hiện diện.
Chúng ta phải rõ ràng và dứt khoát với chân lý Thiên Chúa là Tình Yêu, và
Thiên Chúa không thể là gì khác hơn ngoài là Tình Yêu, nghiã là có yêu thương mới
có Thiên Chúa, nơi nào yêu thương có mặt, nơi đó Thiên Chúa mới ngự trị và hành động, đồng nghiã với ở đâu
không có yêu thương, ở đó vắng bóng Thiên Chúa. Phải rất thận trọng dành “ưu tiên
một” cho tình yêu trong tất cả mọi lựa chọn, vì chọn tình yêu là chọn Thiên Chúa;
phải can đảm dành chỗ cao nhất cho Lòng Thương Xót, vì thương xót là yếu tính của
Thiên Chúa, nên khi thương xót ai, ta chạm
vào trái tim Thiên Chúa và làm Thiên Chúa chạnh lòng. Sở dĩ phải thận trọng và
can đảm trong chọn lựa và hành động theo đức ái, vì đức ái cao trọng hơn tất cả, nếu muốn không lạc hướng vì rất nhiều cám dỗ đủ
loại, kể cả những cám dỗ nhân danh lề luật
của Thiên Chúa mà xúc phạm đến Thiên Chúa
là Tình Yêu; nhân danh cơ cấu hoàn hảo, kỷ cương, trật tự mà vô tình làm tổn thương
Lòng Thương Xót là chính Thiên Chúa, nhân danh
thành qủa truyền giáo, lễ nghi hoành
tráng, linh đình, sinh hoạt sôi nổi, vượt trội mà chống lại Tình Yêu là chính
Thiên Chúa. Sự khác biệt giữa Thiên Chúa là Tình Yêu thương xót và các thuộc tính
khác của Ngài phải được chúng ta phân định rất rõ ràng, để hành trình đi theo Đức
Kitô của người Kitô hữu không bị lạc hướng.
3. Sống Lòng Thương Xót
a. Biết mình luôn cần được thương xót
Để sống lòng thương xót như Thiên Chúa là Tình Yêu thương xót, chúng ta
cần biết mình luôn cần lòng thương xót. Biết mình cần lòng thương xót vì chúng
ta là kẻ có tội cần được thứ tha, hoà giải, cứu sống. Biết mình cần lòng thương
xót là nền tảng của mọi sinh hoạt xót thương, bởi khi biết mình cần được thương
xót, chúng ta chân nhận chính Thiên Chúa là Đấng luôn thương xót ta. Tin Mừng Mátthêu
đã mô tả người đầy tớ bị xiết nợ biết mình cần lòng thương xót, đã nài xin và được tha hết nợ :
Người ta dẫn đến một kẻ mắc nợ vua mười ngàn yến vàng. Y không có gì để
trả nên tôn chủ ra lệnh bán y và tất cả vợ con, tài sản mà trả nợ. Bấy giờ tên đầy
tớ sấp mình xuống bái lậy: Thưa Ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo
trả hết. Tôn chủ của tên đầy tớ ấy liền chạnh lòng thương, cho y về và tha luôn
món nợ (Mt 18, 24-27).
Biết mình cần được thương xót chưa đủ, chúng ta còn phải biết người khác cũng cần đến lòng thương xót của chính
chúng ta. Tất nhiên Thiên Chúa luôn xót thương họ như xót thương ta, nhưng để
thương xót con người, Thiên Chúa cần đến lòng thương xót của chính con người dành
cho nhau. Ngài cần bàn tay chia sẻ, nâng đỡ, xây dựng của con người để biểu lộ
tình yêu mẫu tử của Ngài trên con người, như đã cho con người được cộng tác vào
công trình sáng tạo những con người mới của Ngài. Cũng Tin Mừng Mátthêu cho ta thấy thái độ vô cùng gian ác, vô ơn, vô
cảm của người đầy tớ vừa nhận ơn thương xót xoá nợ của ông chủ đã cố tình tham
lam, ngoan cố ích kỷ, trâng tráo bạo lực khi xóa khỏi tim óc mình “cái biết về nhu cầu được xót thương” nơi
người khác. Tin Mừng đã ghi lại tỉ mỉ cảnh tượng hãi hùng của người đầy tớ gian
ác vừa được xót thương xóa hết nợ đã vội bỏ quên, khước từ bổn phận thương xót
người bạn đáng thương đang mắc nợ mình:
Nhưng vừa ra đến ngoài, tên đầy tớ ấy gặp một đồng bạn, mắc nợ y một trăm
quan tiền. Y liền túm lấy, bóp cổ mà bảo: “Trả
nợ cho ta” ! Bấy giờ, người đồng bạn sấp mình xuống năn nỉ: Thưa anh,
xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả anh. Nhưng y không chịu, cứ tống
anh ta vào ngục cho đến khi trả xong nợ. Thấy sự việc xảy ra, các đồng bạn của
y buồn lắm, mới đi trình bầy với tôn chủ đầu đuôi câu chuyện. Bấy giờ tôn chủ
cho đòi y đến và bảo: “Tên đầy tớ độc
ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, thì đến lượt
ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn như chính ta đã thương xót ngươi
sao?” Rồi tôn chủ nổi cơn thịnh
nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho ông. Ấy vậy, Cha của
Thầy ở trên trời cũng đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không
hết lòng tha thứ cho anh em mình (Mt 1828-35).
Tóm
lại, thiếu lòng xót thương, chúng ta không thể trở nên “đồng hình đồng dạng với Đức Kitô” là
đòi hỏi liên lỷ của Đức Giêsu đối với những ai muốn đi theo Ngài. Chỉ với lòng thương xót anh em mình, chúng ta
mới có thể nói được như thánh Phaolô : “Tôi
sống nhưng không phải tôi sống, mà chính Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Thiếu lòng thương xót, tim chúng
ta không đập chung nhịp của trái tim Thiên
Chúa, nên sẽ không thể gặp gỡ, kết hiệp với Ngài, vì Ngài chỉ ở
trong những tâm hồn có lòng thương xót và nơi nào có bác ái, huynh đệ. Thiếu lòng
thương xót, chúng ta càng không có thể thứ tha cho ai, kể cả cho mình, vì thứ
tha là hành động phi thường mà chỉ những ai có trái tim của Thiên Chúa mới thực
hiện được. Sở dĩ thứ tha đòi tình yêu của Thiên Chúa mới thực hiện được, vì trái
tim tự nhiên của con người bình thường
chỉ thương ai thương mình, yêu ai yêu mình, tử tế với ai biết điều với mình, ơn
nghiã với ai cư xử tốt đẹp với mình, nhưng
không thể thương kẻ ghét mình, yêu người
hãm hại mình, làm ơn cho người hàm oan, vu khống mình, cầu nguyện cho kẻ
bắt bớ, gây khốn khó cho mình, và tha thứ cho những ai xúc phạm, làm tổn thương,
gây đau khổ cho mình. Không có trái tim thương xót của Thiên Chúa, chúng ta sẽ
gục ngã, tuyệt vọng trước những bất công, vô ơn, bội nghiã và đòn thù thiên hạ
giáng trên chúng ta, mặc dù chúng ta đã hết mình, hết tình yêu thương, giúp đỡ,
bênh vực, che chở, xây dựng họ (x. Mt 5, 38- 42;18,21;Lc 6,36-37)
Thật vậy, thiếu lòng thương xót của trái tim Thiên Chúa, chúng ta sẽ bó
tay chào thua trước mãnh lực khủng khiếp của ma qủy biểu hiện qua cõi lòng ganh
ghét, ghen tuông, qua miệng lưỡi điêu ngoa, dối trá, qua bàn tay bạo lực, bất công,
tàn phá, hủy diệt của những người thiếu lòng thương xót chấp nhận đầu quân làm
cánh tay nối dài của thần dữ Satan.
Nhiều người thắc mắc: tại sao thế giới bất an, gia đình bất ổn, và tâm hồn
con người ngày càng trở nên kiêu căng,
chai đá, bất trị ? Và người ta đã nhận được nhiều nghiên cứu, phân tích, lý giải
từ các chính trị gia, chuyên viên kinh tế, nhà xã hội học đến cả chuyên gia tâm
lý, nhưng không một giải đáp nào được coi là thỏa đáng, hữu hiệu.
Đứng trước những bế tắc liên quan đến vận mệnh và hạnh phúc của nhân loại,
nếu chúng ta nhận mình là môn đệ của Đức Giêsu, thuộc về Đức Giêsu, yêu mến và
muốn nên giống Đức Giêsu, chúng ta sẽ không thể cho phép mình dửng dưng, an thân
tự tại, nhưng phải cùng Đức Giêsu lên đường loan báo Tin Mừng Thiên Chúa là Tình
Yêu thương xót cho thế giới hôm nay, vì chỉ một mình Thiên Chúa là Tình Yêu mới
có thể hoá giải những mâu thuẫn, đố kỵ, tị hiềm, thù hận do lòng ganh ghét của
con người; chỉ tình yêu thương xót của Thiên Chúa mới hàn gắn những đổ vỡ trong
cuộc sống, chữa lành các vết thương do bạo lực gây ra trong sinh hoạt; chỉ duy nhất trái tim đầy xót
thương của Thiên Chúa là Tình Yêu mới hồi sinh được thế giới đang chết dần
trong làn khí độc khước từ, phủ nhận
nhau. Chắc chắn khi lên đường để thương xót với Đức Giêsu, chúng ta sẽ bị
phê bình, chỉ trích, hiểu lầm, cô lập, đàn áp, bởi lẽ ma qủy luôn tìm cách ngăn
trở chúng ta thương xót như Thiên Chúa và xúi giục, thúc đẩy, bầy mưu - hiến kế
cho chính anh em chúng ta chống lại chúng ta. Anh em chúng ta có thể vin vào
nhiều lý do, dựa trên nhiều khuyết điểm, thiếu sót, mà vì hết lòng thương xót
chúng ta đã không thể tránh được, khi phải ưu tiên cho lòng thương xót và đặt lòng
thương xót là giá trị cao nhất của mọi lựa chọn. Câu chuyện Đức Giêsu bị các người
Pharisiêu, luật sĩ Do Thái trách móc khi Ngài vì chạnh lòng thương xót đã chữa
ngươi bị bại tay trong ngày Sabát là ngày mà Luật Môsê cấm không được làm việc.Thánh
sử Mátthêu đã kể lại :
Đức Giêsu đi vào hội đường , “ở đó
có người bị bại liệt một tay. Người ta hỏi Đức Giêsu rằng: Có được phép chữa bệnhh
ngày Sabát không?” Họ hỏi thế là để tố cáo
Người. Người đáp: “Ai trong các ông có một con chiên độc nhất bị sa hố ngày sabát,
lại khôg nắm lấy nó và kéo lên sao ? Mà con người thì qúy hơn chiên biết mấy !
Vì thế, ngày sabát được phép làm điều lành”. Rồi Đức Giêsu bảo người bại tay: “Anh
giơ tay ra ! Người ấy giơ tay ra và liền trở lại bình thường lành mạnh như tay
kia”. Ra khỏi đó, nhóm Pharisiêu bàn bạc để tìm cách giết Đức Giêsu (Mt 11,
9-14).
Họ muốn giết Đức Giêsu vì Ngài đã đặt lòng
thương xót trên Lề Luật; muốn tiêu diệt Đức
Giêsu, vì Ngài đã chọn thương xót như “đệ nhất ưu tiên” trong tất cả mọi lựa chọn.
Qủa thực, việc làm và lựa chọn thương xót của Đức Giêsu đã làm xáo trộn toàn thể bộ máy tôn giáo, đồng
thời làm sụp đổ pháo đài quyền lực và lợi
nhuận tôn giáo mà họ đang nắm giữ.
Như Đức Giêsu, người môn đệ sống lòng thương xót cũng sẽ chịu chung số
phận, khi chọn lựa của họ không phù hợp với “chọn lựa vị luật” của những Luật
sĩ, không trùng khớp với “ưu tiên cơ cấu hoàn hảo” của ban tổ chức - điều hành,
không đồng giọng với “chủ trương hiếu thắng, thành qủa”, chỉ được chứ không mất,
chỉ thành công chứ không thất bại của phần
đông những người lãnh đạo.
Số phận ấy cho đến tận thế cũng không khá hơn cho những người thuộc về Đức
Giêsu, nhưng số phận ấy luôn là số phận được Thiên Chúa chúc phúc, bởi họ
đã xót thương anh em đồng loại nên mới phải khóc lóc; xót xa thân phận người khác
mới phải buồn sầu; khát khao mưu tìm công bình cho người bị đàn áp, oan sai, bóc
lột mới khổ đau; tranh đấu hết mình
cho hoà bình, hạnh phúc của mọi người mới
bị vu khống, hiểu lầm oan uổng; nhiệt tình làm chứng cho sự thật mới bị nghi ngờ,
truy lùng, bắt bớ ; và hết mình xả thân vì
Đức Giêsu khi triệt để sống lòng thương xót mới phải
thiệt thân, đổ máu, mất mạng (x. Mt 5,1-11).
Vâng, Đức Giêsu đã làm người để nói với con người Thiên Chúa là Tình Yêu
và Ngài đến để thương xót, cứu độ con người, đồng thời muốn mọi người trở nên
giống Ngài như con cái giống cha mẹ trong tình yêu, thương xót vì Ngài biết chỉ một mình Ngài là Tình Yêu đích thực mới ban sự
sống và hạnh phúc đích thực; chỉ một mình Ngài là lòng Thương Xót mới cứu độ nhân
loại và đem niềm vui cho thế giới không
hạnh phúc vì bất công, gian ác, bạo lực không ngừng đe doạ ; chỉ một mình Ngài
là Thiên Chúa chậm bất bình và rất khoan dung mới thứ tha, xoá tội và ban ơn bình
an thật cho mọi tâm hồn. Thiếu Tình Yêu là Thiên Chúa, khước từ Thiên Chúa là Tình
Yêu, cũng như phủ nhận lòng Thương Xót là căn tính của người Kitô hữu, hay vứt
bỏ Tình Yêu là huy hiệu của người có Đạo, chúng ta sẽ biến thái từ chứng nhân
thành phản chứng, từ Kitô hữu thành “Phản-Kitô”,
và mãi mãi người khác sẽ là địa ngục, thế giới là địa ngục, hiện tại là địa ngục,
tương lai là điạ ngục, vì địa ngục đơn thuần là tình trạng không có tình yêu,
không còn thương xót và hoàn toàn vắng bóng
Thiên Chúa.
Thiên Chúa là Đấng Chủ Tạo. Ngài dựng nên chúng ta cho Ngài, nên không lý
do gì chúng ta không cố gắng trở nên giống Ngài như Ngài đã căn dặn : “Chúng con hãy nên thánh như Cha chúng
con trên Trời là Đấng thánh”. Thánh ở Thiên Chúa chính là lòng thương xót
của Ngài, bởi Thiên Chúa thánh thiện vì Ngài xót thương.
Chia sẻ lo âu của Đức Giáo Hoàng Phanxicô
trước nguy cơ thiếu lòng thương xót đang khuynh đảo thế giới và làm tổn thương
Thân Thể mầu nhiệm Đức Kitô là Giáo Hội, chúng ta cầu xin ơn đổi mới trái tim chúng ta và
tất cả mọi Kitô hữu, để Vương Quốc
của Thiên Chúa Tình Yêu, Nước Trời
của Thiên Chúa giầu lòng Thương Xót trị đến
trong các tâm hồn và thế giới hôm nay đang có nguy cơ tự hủy diệt vì thiếu lòng
thương xót.
Jorathe Nắng Tím