Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 1 tháng 6, 2020

TẠI SAO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO ĐI THEO GIÁO PHÁI? (3)


              THIÊN CHÚA LẤY TÌNH CHA MÀ GIÁO DỤC
Tuổi trẻ là tuổi của tình yêu và tình yêu là hải đăng dẫn lối, động cơ thúc đẩy, lẽ sống, lý tưởng của người trẻ, nên thiếu tình yêu, người trẻ không nghĩ mình có thể tồn tại, vắng bóng tình yêu, người trẻ coi mình như đã chết. Chẳng thế mà không ít người trẻ đã tự tử khi tình yêu đổ vỡ, đã tự hủy diệt khi mộng yêu thương không thành, đã từ chối cuộc sống không tình yêu, dù mọi nhu cầu khác được đáp ứng đầy đủ.
Nhưng tuổi trẻ là thời gian cần được giáo dục để trưởng thành nhân bản, cần được đào tạo để có thể đi trên đôi chân của mình trong cuộc sống, và riêng với người trẻ  Kitô giáo cần được liên tục huấn luyện để trưởng thành trong đời sống tâm linh, tức lớn lên trong đức tin, đức ái, đức trông cậy là nhịp cầu gắn kết với Thiên Chúa, và là tương quan thiết thân với Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người.
Chính vì cần được giáo dục giữa độ tuổi khao khát yêu thương, lứa tuổi được Tình Yêu thu hút mãnh liệt, mà người trẻ công giáo cần bầu khí yêu thương trong giáo dục, cần được bậc cha anh lấy tình mà dậy dỗ, cần được trưởng thành nhờ những thầy dậy đức tin dùng tình cha mà giảng dậy, giáo huấn, đào tạo.
Thực ra, tuổi trẻ rất dễ thương, dễ thương vì qủang đại, không tính toán, so đo, ki bo, vun vén; dễ thương vì cởi mở, không khép kín, bảo thủ, câu nệ, thành kiến; dễ thương vì bao dung, dễ dàng bỏ qua, tha thứ, xí xóa, “cho chìm xuống” chuyện cũ, và cái dễ thương “đáng yêu” nhất của người trẻ là ham học hỏi, thích tìm tòi, sẵn sàng mở lòng đón nhận kiến thức, kinh nghiệm, lời khuyên, giáo huấn của bâc cha anh và bạn hữu.
Nhưng tại sao chúng ta không thành công như lòng mong ước với người trẻ công giáo, khi một trong những nguyên nhân lớn đưa đến việc bỏ đạo đi theo giáo phái chính là sự bất mãn của các em ngay trong khi được đào tạo, giáo dục đức tin ?
Nhìn lại công việc đào tạo đức tin của người trẻ, chúng ta có thể  không tự hổ thẹn với chính mình, vì những gì làm được, chúng ta đã làm, những cơ hội thuận tiện, chúng ta đã nắm lấy, những kỹ năng sư phạm cần thiết, chúng ta đã xử dụng. Tuy nhiên, khi nhìn vào thành qủa, chúng ta vẫn có chút gì để áy náy, cần phải xem lại, khi một số người trẻ mặc dù đã qua thời gian được đào tạo vẫn lẳng lặng bỏ chúng ta nghe theo giáo lý khác, đi theo giáo phái mới lạ.
Có nhiều bạn trẻ sau khi bỏ Giáo Hội đã than thở: Giáo Hội giáo dục như mẹ ghẻ với con chồng, với tâm sự buồn, vì đã không được đào tạo trong bầu khí yêu thương của tình cha mẹ.
Thực ra, quy trách hết cho Giáo Hội thiết tưởng là một bất công, vì ưu tư hàng đầu của Giáo Hội là đào tạo những tín hữu tốt lành, thánh thiện, và xây dựng vững chắc hàng ngũ tông đồ giáo dân, để Giáo Hội luôn là một Giáo Hội  hiệp nhất, hiệp thông trong cầu nguyện, yêu thương, phục vụ, và hăng hái “ra sâu ra xa” trong sứ vụ truyền giáo. Cũng cần phải nhìn vào  thái độ sẵn sàng hay không sẵn sàng của người trẻ khi được mời gọi tham dự những chương trình đào tạo, giáo dục đức tin, vì Giáo Hội không thể thay thế sự cộng tác tự nguyện tích cực của mỗi người.
Tuy thế, với thao thức làm tốt hơn mỗi ngày sứ vụ đào tạo, giáo dục đức tin của người trẻ, thiết tưởng chúng ta thừa khiêm tốn và thiện chí để rút tỉa những kinh nghiệm hữu ích từ những tâm sự của bạn trẻ đã trải qua cơn thử thách nặng nề.
1.   Giáo dục đức Tin không là chuyển tải một kiến thức:
Vì không là kiến thức, nên lớp giáo lý đức tin không là lớp học bình thường với sư phạm bình thường, khi tương quan thầy cô - học trò chỉ là tương quan chuyển tải kiến thức. Trái lại, đức tin là cả cuộc sống, gồm mọi chiều kích, khía cạnh cuộc đời, bởi đức tin biến đổi toàn diện, đức tin thay đổi toàn thể, đức tin đổi mới toàn phần, nên giữa người tin và người không tin có sự khác biệt vô cùng lớn như đất với trời.
Chúng ta hãy nhìn vào con người Saolô trước khi ngã ngựa trên đường Đamát và con người Phaolô sau khi “gặp” Đức Giêsu.
Đây là hình ảnh của Saolô, con người khi chưa tin Đức Giêsu:
·      “Ông tán thành việc giết vị tử đạo đầu tiên Têphanô” (Cv 8,1). Ông Têphanô là một trong bẩy người được các Tông Đồ đặt tay để giúp các ngài trong việc phân phát lương thực (x. Cv 6,1-6). Ông rao giảng Lời Chúa và bị các Thượng Tế bắt và ném đá đến chết.
·      Saolô hăng say phá hoại Hội Thánh của Đức Giêsu: “ông đến từng nhà, lôi cả đàn ông lẫn đàn bà đem đi tống ngục” (Cv 8,3).
Trên đường đến gần Đamát, sau khi có giấy giới thiệu “đến các hội đường ở Đamát, để nếu thấy những người theo Đạo, bất luận đàn ông hay đàn bà thì bắt trói giải về Giêrusalem”, bỗng nhiên có một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống bao phủ lấy ông. Ông ngã xuống đất và nghe có tiếng nói với ông: “Saun, Saun, tại sao ngươi bắt bớ Ta?” Ông nói : “Thưa Ngài, Ngài là ai?” Người đáp : “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ” (Cv 9,2. 3-4). 
Sau khi “gặp Đức Giêsu”, Saolô không còn là hung thần bắt bớ người có đạo, nhưng trở thành con người mới Phaolô, tông đồ dân ngoại:
·      “Ông cùng với các tông đồ đi lại hoạt động tại Giêrusalem. Ông mạnh dạn rao giảng nhân danh Chúa. Ông thường đàm đạo và tranh luận với những người Do Thái theo văn hoá Hy Lạp. Nhưng họ tìm cách giết ông” (Cv 9,28-29).
·      Phaolô hướng về dân ngoại, và bị người Do Thái phản đối, nhục mạ, ngược đãi (x. Cv 13, 44-50).
·      Vì loan báo Tin Mừng của Đức Giêsu, Phaolô chịu muôn ngàn thử thách: bị truy lùng, giam cầm, đánh đòn, bị đắm tầu, và đủ mọi gian nan khác, như ngài đã viết cho Timôthê, môn đệ của ngài: “Anh đã thấy lòng tin, sự nhẫn nại, lòng yêu mến, sự kiên trì của tôi; anh đã biết những cơn bắt bớ, những sự đau khổ tôi đã gặp ở Antiôkhia, Icôniô, Lýtra, đã biết tôi chịu bắt bớ như thế nào” (2 Tm 3,10-11).
Và người đương thời đã không thể tưởng tượng Phaolô và Saolô là một người, vì đức tin đã hoàn toàn biến đổi ông, đến nỗi ông đã thốt lên trong niềm hạnh phúc siêu nhiên của người tin yêu Đức Giêsu: “Tôi sống, nhưng không còn là tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).  
2.   Giáo dục đức tin không là huấn luyện một khả năng, nghề nghiệp:
Quân trường đào tạo khả năng làm lính để đánh giặc, trường sĩ quan đào tạo cấp lãnh đạo để chỉ huy đoàn quân, trung tâm huấn nghiệp đào tạo ngành nghề để sinh sống, nhưng trường dậy đức tin không nhắm những mục tiêu này. Bởi nếu nhắm những mục tiêu trên, lớp giáo lý sẽ có những tiêu chí đào tạo, những tiêu chuẩn lượng giá thành qủa như các trường lớp huấn luyện khả năng, nghề nghiệp mà không chọn “tương quan  Cha - Con giữa mỗi người với Đức Giêsu”, đời sống kết hiệp thân mật giữa mỗi người với Thiên Chúa Ba Ngôi, đời sống hiệp thông trong đức ái giữa mọi người trong Giáo Hội làm mục tiêu của giáo dục.
Thực vậy, chỉ hai điểm chính yếu trên cũng đã đủ để thấy sự khác biệt giữa giáo dục đức tin và “các giáo dục, đào tạo khác của trần thế”. Vì khác biệt căn bản này, mà giáo dục đức tin không đi theo đường lối, kỹ năng đào tạo của người đời, nhưng theo một sư phạm đặc biệt của Đức Giêsu. Đó là sư phạm của Tình Cha,
3.   Tình Cha trong giáo dục của Thiên Chúa:
Để hiểu rõ hơn sư phạm của sứ vụ giáo dục đức tin mà Thiên Chúa muốn chúng ta thực hiện đối với người trẻ, chúng ta được mời gọi chiêm ngưỡng chân dung Thiên Chúa là “người Cha nhân hậu” trong Tin Mừng Luca 15,11-32 :
a.   Với tình cha nhân hậu, người cha đã không một lời trách móc cậu con thứ hoang đàng:
Sau thời gian dài bỏ nhà đi hoang, ăn chơi trác táng, tiêu xài hết phần gia tài được chia, cậu con thứ trở về thân tàn ma dại. Thực ra, động cơ thúc đẩy cậu trở về là tình cảnh túng thiếu kiệt quệ “phải đi ở đợ” và “ao ước được lấy cám heo mà nhét cho đầy bụng” mà cậu rơi vào, chứ thực ra cậu chẳng nhớ nhung gì cha già ở nhà hằng ngày ra đầu ngõ ngóng tin con trai.
Là người thực dụng, cậu khôn khéo sắp xếp những gì phải nói với cha khi trở về, như đã tính toán đòi cha phải chia gia tài trước đây. Vì sợ cha nổi nóng xua đuổi, cậu đã nghĩ ra lời thú tội tuyệt vời, và tin chắc sẽ làm cha mủi lòng: “Con thật đắc tội với Trời và với cha. Con chẳng còn đáng gọi là con cha nữa” (Lc 15,18 -19).
Nhưng thật bất ngờ, người cha nhân hậu đã chẳng để ý đến lời thú tội của đứa con hư hỏng, mà chỉ cuống quýt bảo đầy tớ này: “đem áo đẹp nhất mặc cho cậu”, nói đầy tớ kia: “xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu”, và hớn hở điều động gia nhân “bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng” (x. Lc 15, 11-24)
b.  Với tình cha nhân hậu, người cha đã kiên nhẫn chịu đựng và khiêm tốn ra năn nỉ cậu con cả:
Cậu con cả được tiếng hiếu thảo, chăm chỉ làm việc, bên cha “tay hòm chià khóa”, nhưng vì ganh tức với em, khi cha làm tiệc linh đình mừng con trai thứ mà ông tưởng “đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy” nên “nổi giận và không chịu vào nhà” khi từ ngoài đồng về.
Biết con trai cả đang nổi nóng vì nghĩ cha không thương mình, người cha nhân hậu đã  đích thân “ra năn nỉ” cậu con cả nhỏ nhen, tị nạnh để cậu nguôi giận vào nhà gặp em và chung vui với mọi người ngày em trở về.
Qủa thực, người cha nhân hậu là Thiên Chúa đã giáo dục bằng tình cha, nhưng tình Cha được áp dụng một cách khác nhau cho mỗi người: với người con thứ, vì biết anh lo sợ bị từ chối, bị xua đuổi, không cho vào nhà, nên người cha đã  giả điếc làm ngơ, không đếm xỉa gì đến  lời tạ tội “có cánh” của cậu; nhưng với người con cả, vì biết lòng ganh tức đang đốt cháy anh, nên người cha đã xóa mình, khiêm tốn “ra năn nỉ” anh.
Thực ra, ông hạ mình ra năn nỉ anh, cốt để nghe anh nói, nghe anh giãi bầy, nghe anh trút cơn giận hơn là để nói với anh. Bằng chứng là ông đã để người con cả tha hồ  lớn tiếng, lên giọng phân bua, trách móc, tự hào kể lể công trạng: “Cha coi, bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!” (Lc 15,29-30).
Qua thái độ của người cha nhân hậu, chúng ta nhận ra đường lối giáo dục của Thiên Chúa đặt trên Tình Cha được biểu hiện bằng:
·      Tình yêu quảng đại bao dung khi tha thứ vô điều kiện cho cậu con thứ.
·       Tình Yêu kiên nhẫn chịu đựng tính hoang đàng, ngược ngạo, phung phí của con thứ và tính kiêu căng, ghen tương, tị nạnh, ích kỷ của con cả.
·      Tình Yêu khiêm nhường và hiền lành để lắng nghe và dạy dỗ, khuyên răn.

4.   Mục đích của Thiên Chúa khi lấy Tình Cha mà giáo dục:
Người cha nhân hậu là Thiên Chúa đã lấy Tình Cha bao dung, quảng đại, kiên nhẫn chịu đựng, khiêm tốn, hiền lành để dậy các con  một điều duy nhất, đó là Tình Cha của ông vô cùng và đến cùng: vô cùng bao la, nên vô điều kiện; đến cùng nên vượt mọi ràng buộc của không gian, thời gian. Vô điều kiện nên ông đã bất chấp “lời ong tiếng ve” của thiên hạ khi chê ông nhu nhược không dám từ con, hoặc đuổi phắt nó đi, mà không cho về nhà. Ông cũng chẳng sợ lối xóm, nhất là đám gia nhân chê ông hèn yếu khi đích thân “ra năn nỉ” cậu con cả. Trái lại, vì biết rõ mục đích phải đạt, mục tiêu phải tới, ông đã không ngại bất cứ lực cản nào. Và mục đích, mục tiêu ấy chính là các con ông nhận ra ông yêu thương chúng vô cùng và đến cùng .
Nhận ra Tình Chúa là Tình Cha bao la hải hà, nhận biết Thiên Chúa là Cha nhân hậu, nhận rõ Thiên Chúa là Tình Yêu, đó là mục đích của giáo dục đức tin, là mục tiêu phải đạt trong sứ vụ giáo dục đức tin cho người trẻ, bởi nếu Thiên Chúa là Tình Yêu, đường Thiên Chúa đi và muốn những ai theo Ngài phải đi là đường tình yêu thì giáo dục đức tin không thể nhắm mục đích nào khác ngoài giúp người được đào tạo nhận ra Thiên Chúa yêu thương họ vô cùng và đến cùng .
Nhiều nhà giáo dục đức tin ngại nói về Tình Cha của Thiên Chúa với người trẻ, vì sợ rằng người trẻ sẽ “được đà, mượn cớ” sống bê tha, phóng đãng, vì dựa vào Thiên Chúa là tình yêu, nên sẽ không ra án, đoán phạt. Những vị này chủ trương dùng sợ hãi hơn là tình yêu để giáo dục, sử dụng hình ảnh đe doạ hơn thương xót để củng cố đức tin. Nhưng các vị quên một điều quan trọng là “tình yêu không biết đến sợ hãi; trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi, vì sợ hãi gắn liền với hình phạt và ai sợ hãi thì không đạt tới tình yêu hoàn hảo” (1 Ga 4,18), như thánh Gioan tông đồ đã qủa quyết. Bên cạnh là những mâu thuẫn rất nguy hiểm khi chúng ta vừa tuyên xưng Thiên Chúa là Tình Yêu, Ngôi Hai Thiên Chúa đến và chết cho con người vì yêu, Đức Giêsu nhập thế, nhập thể để cứu những người tội lỗi và chuộc lại những gì đã hư mất, vừa vẽ chân dung một thiên chúa xét nét, canh me, rình rập sai phạm, lầm lỗi của con người, một thiên chúa nhớ từng tội và không tha thứ cho ai, một thiên chúa thich trừng phạt, đầy đọa tội nhân, dễ nổi giận và cực kỳ nhỏ mọn, khó tính.
Qủa thực, nếu giáo dục đức tin không nhắm mục đích “được tháp nhập vào và sống tình yêu của Thiên Chúa” thì làm sao người trẻ có thể vượt qua những mâu thuẫn ngay trong giáo lý, và tất nhiên không thể chấp nhận những điều phi lý chúng ta cố tình cưỡng ép, áp đặt các em.
Và vì lẽ đó, người trẻ không còn muốn nghe, không còn dám tin, bởi chính chúng ta không nắm vững giáo lý căn bản, nôi dung của Tin Mừng, sứ điệp của Thiên Chúa, nhất là căn tính của Thiên Chúa là Tình Yêu, là Tình Cha, là người cha nhân hậu chỉ biết yêu thương vô cùng và đến cùng con cái mình.
Vâng, Đức Giêsu đã không mặc khải chân lý nào khác hơn chân lý: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4,8), và “Tình Yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4,9-10).
Bởi thế, nếu quên mục tiêu của giáo dục đức tin là giúp người khác tin nhận Thiên Chúa là Cha giầu lòng thương xót và sống Tình Cha Thiên Chúa nhân hậu ấy bằng yêu thương anh em như Thiên Chúa đã yêu thương, vì đó là “giới răn chúng ta đã nhận từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình”. (1 Ga 4,21), chúng ta vô tình để  công trình giáo dục đức tin cho người trẻ của chúng ta bị vô hiệu, và coi như “đổ biển” công khó giáo dục của chúng ta, vì lệch đường lối giáo dục Tình Cha của Thiên Chúa.   
Và một khi chấp nhận giáo dục người trẻ bằng Tình Cha của Thiên Chúa, như Thiên Chúa đã lấy Tình Cha của Ngài mà giáo dục, chúng ta sẽ tránh áp đặt những phương pháp sư phạm đe loi, dọa nạt, tránh những thái độ cứng cỏi, đanh thép, lạnh lùng, tránh não trạng vị luật, quan án trong sứ vụ giáo dục đức tin, vì chỉ tình yêu mới thực sự thay đổi tâm hồn, chỉ tình yêu mới thực sự hoán cải đời sống,  chỉ tình cha của Thiên Chúa mới đào tạo trái tim mỗi người  biết yêu thương anh em như Thiên Chúa yêu thương, biết thương xót anh em như Thiên Chúa thương xót.
Ước gì người trẻ không vì sợ Thiên Chúa mà bỏ Thiên Chúa, không vì bị đe dọa mà bỏ Giáo Hội, nhưng được lớn lên trong Tình Cha của Thiên Chúa, được trưởng thành trong đức tin nhờ nhận ra Thiên Chúa là cha nhân hậu rất yêu thương. Nhờ vậy, người trẻ được giáo dục sẽ không bất mãn khi được Giáo Hội nhắc nhở, sửa trị; không bực bội khi bị khiển trách, sửa sai như lời khuyên của thánh Phaolô: “Con ơi, đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dậy, chớ nản lòng khi Người khiển trách. Vì Chúa thương ai thì mới sửa dậy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt” (Dt 12,5-6).
Về phần người giáo dục, các vị cũng được mời gọi thực hiện sứ vụ giáo dục đức tin với Tình Cha của Thiên Chúa như Đức Giêsu đã giáo dục các môn đệ của Ngài bằng tình yêu của người cha nhân hậu, bằng Tình Cha yêu vô cùng và đến cùng, yêu vô điều kiện và vượt mọi ranh giới, lực cản”.
Jorathe Nắng Tím

BỔN PHẬN YÊU THƯƠNG CỦA CHA MẸ


Bổn phận lớn nhất, quan trọng nhất bao trùm các bổn phận khác và không một bổn phận nào có thể thay thế, đó là bổn phận yêu thương con cái của cha mẹ. Nếu không cần đến tình yêu cha mẹ thì Thượng Đế đã chẳng cần nhờ vợ chồng tiếp tay tạo dựng con người; bởi Ngài có thể dựng con người từ những hòn đá, cục sỏi. Nhưng vì cần tình yêu bảo bọc, âu yếm, Ngài đã cậy đến tình yêu cha mẹ để em bé được an toàn, ấm áp, no nê. Nếu tình yêu không là nhu cầu tối cần thiết mang tính sống còn cho em bé, thì tình mẹ, tình cha sẽ thừa thãi, vì cần chi người mẹ vất vả mang thai và người cha tần tảo lo sữa uống, cơm ăn áo mặc?
Dường như không ai không cảm nhận tình yêu người mẹ dành cho con khi bà mang nặng đẻ đau, nuôi con từng ngày cho đến khi con trưởng thành, khôn lớn. Không ai quên được hình ảnh cha mình với những nét nhăn lo âu cho hiện tại của con trên trán và ưu tư đợi chờ tương lai xa xôi của con trong ánh mắt đăm chiêu. Tình cha cho con cao như núi, tình mẹ thương con dạt dào như biển bao la. Và đó là sự thật không thể chối cãi.
Sự thật những người mẹ suốt đời không biết đến một thú vui, một ngày nghỉ, một tuần lễ đi hè vì mải mê lo cho con, hết đứa này đến đứa khác. Sự thật về những người cha suốt đời bận rộn vì đàn con hết đứa này đến đứa kia “mè nheo”, đòi hỏi. Sự thật về những người cha, người mẹ chỉ nhận về mình hy sinh, thiệt thòi vì hạnh phúc của con cái. Sự thật về những tấm lòng làm cha làm mẹ hiến dâng hết đời mình cho con, lại tiếp tục dâng hiến chút đời còn lại cho cháu chắt.  
Nhưng cũng có những sự thật vì quá yêu con mà cha mẹ làm hỏng con, quá thương con mà giết tương lai đời con, quá chiều chuộng con mà ngăn cản con trưởng thành, quá âu yếm con mà biến con thành ấu trĩ, bạc nhược, quá bảo bọc con mà biến con thành những thân “tầm gửi” tầm thường vì không bao giờ đứng nổi một mình. Đây là những sự thật thưòng gặp và rất có thể rơi vào chính ta, nếu ta không cẩn thận đề phòng.
1.   Thần tượng con vì quá yêu con:
Hiện tượng thần tượng con cái là hiện tượng gặp được nhan nhản trong nhiều gia đình. Cha mẹ thần tượng con từ dáng đi kiểu đứng, từ mái tóc, làn môi đến lời ăn tiếng nói, việc học, việc làm. Con cái tự nhiên nhẩy vọt lên làm “Thần”, và cha mẹ tự động bảo nhau xây bệ để đặt “Tượng” con. Thần tượng ai là suy tôn người ấy, mà ranh giới của “suy tôn” - “thờ phượng” không xa nhau  bao nhiêu; vì thế người ta rất thường lẫn lộn, vượt ranh, lấn làn.

Thần tượng con là lấy con ra khỏi đời thường, cất đi cuộc sống làm người bình thường, thường ngày của con, nhưng đặt con ở một đẳng cấp cao vời, vượt khỏi đời sống làm người bình thường. Đứa con của đời sống bỗng trở nên Thiên Tử, con Trời, con Phật, con Thánh ở một thế giới khác, trong khi thực tế cả cha mẹ và con cái đều không thể vuợt khỏi ranh giới đời người. Tình trạng giằng co giữa đời và thánh, người và Thần, thực và hư sẽ xé đôi con người đứa con và đẩy con xuống hố sâu ảo tưởng về mình. Ảo tưởng về mình là không còn nhận ra sự thật về mình để phải sống những hình ảnh vay mượn, bị gán ghép, và luôn luôn ảo do mình và người khác tạo ra. Hậu qủa không thể tránh của cuộc sống ảo này sẽ là tình trạng trầm cảm, mê loạn vì đánh mất chính mình.
Ta thấy khắp nơi những cảnh lố bịch khi thần tượng con cái như say mê ca ngợi, bốc bổng con cái trước mặt con và người khác, hay “nổ” chát chuá vào mặt người khác về thành qủa luôn luôn tuyệt vời, tuyệt đỉnh, tuyệt chiêu, “tuyệt cú mèo “của con mình mà không chút ngượng ngùng hay nể nang người đối diện. Có những cuộc nói chuyện đang “đối thoại” biến thành “độc thoại” với chỉ một đề tài về những kỳ công của con cái mình… Có những bà mẹ say mê hàng giờ “thuyết trình” không mỏi mệt, sùi cả bọt mép, khàn cả giọng, trắng giã cả mắt về cô con gái mà nghe xong, người ta có cảm tưởng vừa ở cung trăng với chị Hằng rớt xuống. Chẳng biết con gái của bà thế nào, nhưng nghe mẹ mà đoán ra con, thấy mẹ mà hình dung ra con, nên những điều bà trông chờ cho con gái đã chẳng bao giờ thành sự thật.

Thần tượng con sẽ không mang lại lợi ích cho con, vì con sẽ không nhận ra sự thật về mình. Nói cách khác, khi thần tượng con cái, cha mẹ đã đẩy con mình vào một thế giới của gian dối, ở đó, tất cả những gì cha mẹ gán ghép, áp đặt, ca ngợi, nổ về con đều là biạ đặt, vay mượn, kéo căng, nối dài, cường điệu, thổi phồng đến mức tối đa. Sống như thế là sống ảo, sống không thực. Và không thực là vi trùng độc hại tàn phá tuổi thơ nhanh chóng và hiệu qủa nhất.

Thần tượng con mình còn đẩy chúng vào thế đứng cô độc vì bị cô lập giữa cuộc đời, bởi mọi người. Vì quen nghe những chúc tụng, lời khen có cánh của cha mẹ, em bé sẽ không còn nhận ra chân mình còn đạp đất mà tưởng chỉ còn đầu chạm trời. Ở dưới đất, bên cạnh những con nguời phàm mà ứng xử phách lối hay tưng tửng lạc điệu  như người cõi trên thì hỏi làm sao được sống yên ổn, an bình, vui vẻ với người chung quanh?
Sau cùng, thần tượng con sẽ làm hại chúng vì biến chúng sớm trở thành những đứa con kiêu căng, tự mãn, thiếu tôn trọng người khác, lập dị, phức tạp, không quân bình trong đời sống.
Nhưng nguy hiểm hơn cả là chính cha mẹ khi thần tượng con cái đã không đặt con cái như đối tượng yêu thương; ngược lại, một cách vô thức đã biến con mình thành phương tiện để phục vụ chính tham vọng của mình. Các nhà phân tâm đồng ý với nhau: khi thần tượng con cái, cha mẹ đã phóng trên con cái ước mơ lâu ngày bị ức chế của chính mình và dùng con như phương tiện để thoả mãn các ẩn ức đó. Như thế, cha mẹ đã  thần tượng con cái là vì mình, vì muốn thoả mãn tính ích kỷ tìm hư danh của mình hơn là vì yêu  thương con.
  
2.   Nhượng bộ con vì quá yêu con:
Bổn phận yêu thương đòi cha mẹ giáo dục con nên những con người trưởng thành. Trưởng thành là mục tiêu của giáo dục. Nhưng trưởng thành là gì?
Khi vào đời, đứa trẻ còn non nớt, nên cần thời gian dài chung sống với người chung quanh để học trưởng thành. Trưởng thành hệ tại ở khả năng độc lập bản thân; nghiã là tự quản được đời mình, tự trách nhiệm trên sinh hoạt của mình, chấp nhận được chính mình từ trong lắng đọng sâu thẳm của nội tâm, không chán ngán cuộc sống bằng cách lẩn trốn trong những quan hệ không ý nghiã. Trưởng thành còn là khả năng tự nhận ra giá trị của mình và đánh giá thực tại chung quanh. Người trưỏng thành truy tìm sự thật bằng quy chiếu vào tha nhân. Truy tìm sự thật, phát huy sự thật để thật với chính mình và với người. Nhờ sự thật, người trưởng thành chọn lựa chính xác và nhờ chọn lựa chính xác, họ trở thành người hữu ích cho gia đình, xã hội.

Như thế, có những điều cha mẹ không thể cho phép con làm khi con chưa đủ trưởng thành, vì không thể nhận ra  tốt - xấu, lợi - hại mà chỉ cha mẹ mới đủ khả năng và quyền hạn chỉ bảo, quyết định. Chẳng hạn, có nhiều cha mẹ đại gia đã để con cái thả cửa phí phạm tiền bạc mà không hề giúp con nhận ra giá trị của đồng tiền. Không cần biết đồng tiền đó từ đâu ra, nhưng nhượng bộ con đến độ không dám ngăn cản con trong những lạm dụng quá đáng đã đặt cha mẹ vào vị trí những nô lệ thay vì là cha mẹ, nhà giáo dục.
Cũng có một số trường hợp nhượng bộ con vì mặc cảm tội lỗi, mặc cảm bỏ bê, thiếu trách nhiệm với con. Tất cả đã đưa đến những hậu qủa khó lường: sự sa đoạ, không thể lớn lên, trưởng thành của con cái.
Cách chung, cha mẹ vì quá yêu con, sợ con buồn nên dễ dàng nhượng bộ con trong những điều con không nên làm, không được phép làm. Không thiếu những cha mẹ đã nuông chiều con mà nhượng bộ con đến độ không để con phải cố gắng bao giờ. Những nhượng bộ phản giáo dục này sẽ đè nặng trên đời con và không cho chúng đạt tới tình trạng trưởng thành cần thiết trong đời sống.

3.   Bảo bọc con, ghìm giữ con thái quá vì yêu con:
Tất cả những “thái quá, bất cập” đều nên tránh trong giáo dục. Buông lỏng và không lo lắng, chăm nom con cũng như trói chặt con trong vòng vây của “tình yêu bảo bọc”, cả hai đều nguy hiểm vì một bên làm con lạc lõng, mất hướng, một bên làm con ngộp thở, không sống đời mình. Những bà mẹ quá thương con đã không muốn cắt giây nhau gắn con với bụng mình. Những người mẹ “độc quyền sở hữu” này muốn biến con thành phó bản, hình chụp của chính bà và thường bực bội khó chịu khi con yêu người khác và bị người khác ảnh hưởng. Có những bà mẹ “giam cầm” con trai suốt đời dưới trướng chở che toàn năng, toàn diện của mình và không để con trai sống đời mình, cũng không được có bất cứ sáng kiến, chọn lựa riêng tư nào, ngoài những gì từ mẹ. Ngay cả đời sống lứa đôi riêng tư, kín đáo giữa vợ chồng, bà cũng tìm mọi cách can thiệp, chen vào giữa vì sợ mất con, sợ con không còn yêu bà khi có vợ ở bên. Thảm họa mẹ chồng - con dâu phần lớn xuất phát từ tâm lý lệch lạc và vô thức sở hữu, độc quyền của bà mẹ trên con trai mà trong bất cứ một tác phẩm tâm lý gia đình nào, các tác giả đều đặc biệt lưu ý và đề cập.  
Như thế, yêu con mà giam hãm đời con là giết con ngay khi con chưa sống. Hãy nhìn chim trời. Khi còn bé, chim cha chim mẹ rất thương yêu, chăm sóc, âu yếm chim con; nhưng khi chim con lớn, đủ lông đủ cánh và trưởng thành, chúng được chim mẹ chim cha dắt vào đời, giúp tung cánh bay trong trời rộng. Chim mẹ chim cha đã không giữ mãi chim con dưới cánh “nhỏ bé, có gìới hạn” của mình, nhưng chuẩn bị cho chim con làm đời mình và vào đời trong bao la vô tận của đất trời. Nhờ thế, chim con mới được ríu rít bay trong trời rộng, và hân hoan đi làm cuộc đời riêng ở những phương xa có tình yêu, hạnh phúc.

Yêu con là bổn phận thiêng liêng, cao cả. Yêu con hơn cả yêu mình là lẽ sống của mẹ cha. Nhưng yêu không đúng cách, yêu không đúng chuẩn mực, tình yêu “thái quá, bất cập” sẽ phản tác dụng để thay vì xây dựng sẽ phá hoại đời sống con, thay vì đồng hành sẽ phân rẽ, thay vì đạt mục đích trường thành sẽ mãi mãi ghim con trong ấu trĩ, lệ thuộc.
Tình yêu có đường đi, nguyên tắc và kỷ luật của nó. Và cha mẹ cũng không thể tự mình ra khỏi những nguyên tắc, kỷ luật, đường đi của tình yêu.
Ước mong con cái Bạn sẽ được tình yêu của Bạn bao phủ nhưng không phủ kỹ đến độ ngộp thở, không bao kín đến độ  làm mắt con mù lòa không thấy được đường đi của đời mình.