Tìm kiếm Blog này

Chủ Nhật, 22 tháng 3, 2020

COVID-19 có phải là dấu chỉ Tận Thế?


Cứ mỗi lần tai họa thiên nhiên hay chiến tranh bùng nổ chỗ này, chỗ kia, nhất là khi đại dịch hoành hành đe doạ tiêu diệt toàn thể nhân loại trong một thời gian ngắn như hiện trạng của Covid-19, chúng ta lại được nghe chuyện tận thế, bị ám ảnh bởi thảm cảnh tận thế, và run sợ do hình ảnh hãi hùng về ngày tận thế được vẽ ra.
Thực ra, không phải vô lý mà nhiều người nói về ngày tận thế, không phải ngẫu nhiên mà không ít người lo sợ bước chân dồn dập ngày càng gần của tận thế, cũng không phải vô ý, vô tình mà người này rỉ tai người kia mua sẵn nến để đốt trong những ngày trước tận thế, chuẩn bị áo trắng trước khi thiên thần tạt qua từng nhà và chỉ cứu những ai mặc áo trắng, theo lệnh của Thiên Chúa, càng không phải vô căn cứ mà người ta lo lắng ngày tận thế không xa, trái lại, tất cả đều có lý do.
Lý do là có nhiều tiên báo của những người được gọi là tiên tri của thời đại đã xẩy ra đúng, như bà Vanga, một người đàn bà mù người Bungari, mà một số lời tiên báo về đại hoạ trên thế giới đã được nhiều người công nhận, thí dụ: như vụ đánh bom tháp đôi  ở New York ngày 11.09.2001, và năm 2020, Âu Châu sẽ vắng bóng người qua lại trên đường phố…
Nhưng lý do có sức thuyết phục hơn cả là những cảnh báo về ngày tận thế được ghi lại trong Kinh Thánh, nhất là được chính miệng Đức Giêsu nói với các môn đệ trong Tin Mừng. Những lời này được coi như nền tảng vững chắc cho những quyết đoán của nhiều người về ngày tận thế không xa.  
Trong Cựu Ước thì ngôn sứ Đanien nói nhiều về viễn cảnh ngày cuối cùng, đặc biệt từ chương 8 đến chương 12. Ở Tân Ước thì Tin Mừng Máccô ghi lại những gì Đức Giêsu trả lời các môn đệ về “những gì sẽ xảy ra và những điềm báo khi tất cả sắp đến hồi chung cục” (x. Mc 13,4).
“Qủa thế, dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ. Sẽ có động đất ở nhiều nơi, sẽ có những cơn đói kém. Những sự việc ấy là khởi đầu các cơn đau đớn.” (Mc 13,8), hoặc “Khi anh em thấy Đồ - Ghê - Tởm đứng ở nơi nó không được phép đứng - người đọc hãy lo mà hiểu! – thì bấy giờ ai ở miền Giuđê hãy trốn lên núi; ai ở trên sân thượng thì đừng xuống và đừng vào lấy gì ra khỏi nhà; ai ở ngoài đồng đừng trở lại lấy áo choàng của mình. Khốn thay những người mang thai và những người đang cho con bú trong những ngày đó! Anh em hãy cầu xin cho những sự ấy đừng xảy ra vào mùa đông. Vì những ngày đó sẽ là những ngày gian nan đến mức từ lúc khởi đầu, khi Thiên Chúa tạo thành vạn vật cho đến bây giờ, chưa khi nào xảy ra và sẽ không còn xảy ra như vậy nữa” (Mc 13,14-19). Và “trong những ngày ấy, sau cơn gian nan ấy, thì mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, và các quyền lực trên trời bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến” (Mc 13, 24-26).    
Trước những lời tiên báo về ngày chung cuộc, ai trong chúng ta cũng đều nơm nớp lo âu cho số phận chung của cả nhân loại, và âu lo về số phận của bản thân mình.
Trong lo âu cho mọi người và âu lo cho riêng mình, khi không ít những dấu chỉ, điềm báo như ngày càng tỏ lộ rõ ràng và sát cạnh, người Kitô hữu phải có chọn lựa  nào?
1.            Những đau đớn, khổ sở, tai họa xẩy ra cho cá nhân hay cho cộng đồng nhân loại không được hiểu là những điềm báo mang thuần tính cánh chung:
Bởi khi nói về những tai ương khốn khó, Đức Giêsu đã lập tức cảnh giác các môn đệ: “Anh em hãy coi chừng, kẻo bị người ta lừa gạt. Sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy  đến nói rằng: “Chính Ta đây!”, và họ sẽ lừa được nhiều người. Khi anh em nghe có giặc giã, thì đừng khiếp sợ. Những việc đó phải xẩy ra, nhưng “chưa phải là chung cục” (Mc 13,5-7).
Đàng khác, Ngài đã đặt những gian truân, vất vả, đe dọa được loan báo đó trong bối cảnh truyền giáo, ở đó nhà truyền giáo, cũng là những môn đệ của Ngài không ngừng bị bách hại, như chiên ở giữa bầy sói (x. Mt 10,16 ): “Phần anh em, anh em hãy coi chừng! Người ta sẽ nộp anh em cho các hội đồng và các hội đường; anh em sẽ phải ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy, để làm chứng cho họ được biết” (Mc 13,9).
Sở dĩ truyền giáo luôn đi liền với tai ương, khốn khó, vì Ngôi Lời “đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11); vì “nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước… Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em” (Ga 15,18.20).
Cũng như ngôn sứ Đanien trong Cựu Ước đã nói về những tai ương, khốn khó trong thời của kẻ dữ hoành hành, thống trị: “Những kẻ hiểu biết trong dân sẽ dậy dỗ nhiều người; nhưng họ sẽ ngã gục vì gươm đâm lửa đốt, sẽ bị đầy ải, bị cướp bóc trong một thời gian. Khi họ ngã gục, những kẻ đến trợ giúp họ thì ít, còn những kẻ liên kết với họ vì xảo quyệt thì nhiều” (Đn 11,33-35). Đó cũng là thời kỳ “Vua sẽ mặc sức hoành hành, sẽ tự cao tự đại, tôn mình lên trên hết các thần. Y sẽ nói những điều kỳ quặc chống lại Thiên Chúa...” (Đn 11,36).
2.            Lời cầu nguyện và đời sống chứng nhân của những người thuộc về Thiên Chúa rút ngắn những ngày gian nan, khốn khó:
Thiên Chúa là Tình Yêu, nên Ngài không thể làm gì khác ngoài yêu thương; Thiên Chúa là người Cha nhân hậu, nên không lẽ “khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? Hoặc nó xin trứng lại cho nó bọ cạp?” (Lc 11,11-12).
Tai hoạ mang đến khổ đau cho con người, ngoài một phần rất nhỏ do bất toàn, giới hạn, tương đối của thiên nhiên, vạn vật, còn phần lớn đều do con người, vì thiếu yêu thương đã gây ra cho nhau.
Bạn cứ nhìn vào những đau khổ Bạn chịu, những khốn khổ cộng đòan phải chịu, những tai ương thế giới phải chịu đã phát sinh từ đâu? Nếu không phải từ tâm hồn vô cảm, từ trái tim không biết chạnh lòng thương xót, từ kiêu căng, ngạo mạn muốn mọi người quy phục, hầu hạ mình, từ ích kỷ chỉ nghĩ đến “cái tôi”, mà hành xử bất công, bất chính, từ tham lam vô độ khi cướp của, chiếm đọat tài sản của người khác, nước khác, từ tham vọng bá chủ, toàn trị khi tìm cách truy diệt các dân tộc khác, quốc gia khác, từ khuynh hướng ganh ghét, bạo lực phủ nhận quyền sống và làm tổn thương sự sống của đồng loại, ngay cả những tai họa tự nhiên cũng từ tay con người gây ra, khi không tôn trọng thiên nhiên và tàn phá môi trường sống.
Tuy thế, Thiên Chúa vẫn dành cho con người quyền cầu xin để những khổ đau, tai họa được giảm bớt, những ngày gian nan được rút ngắn lại, như Tin Mừng Máccô khẳng định: “Nếu Chúa không rút ngắn những ngày ấy lại, thì không ai được cứu thoát; nhưng vì những kẻ Người tuyển chọn, Người đã rút ngắn những nngày ấy lại” (Mc 13,20).
Đó là lý do Giáo Hội kêu gọi chúng ta cầu nguyện trong cơn gian nan, khốn khó của thế giới cũng như trong thử thách của chính bản thân.
Nhiều người bĩu môi thiã bãi khi nghe Đức Thánh Cha phát động phong trào lần chuỗi cầu xin ơn giải thoát thế giới khỏi đại dịch, có người phì cười khi các Nữ Bề Trên Tổng Quyền các Dòng kêu gọi dành ngày Chúa Nhật 22.03.2020 là ngày “Liên Đới cầu nguyện” cho các nạn nhân bị Covid-19 làm tổn thương; nhiều người cho rằng cầu nguyện chỉ làm mất thời giờ của người khác, vì theo họ: cầu nguyện ích gì cho buổi ấy, cầu nguyện giải quyết được gì, nhất là cầu nguyện chỉ là việc làm mê tín, viển vông, ảo tưởng, tự lừa dối, phỉnh gạt mình, khi qúa lo lắng, sợ hãi.
Với chúng ta, người Kitô hữu, cầu nguyện là sức sống của Thiên Chúa tràn đầy trong chúng ta, cầu nguyện là tình yêu của chúng ta được hoà quyện trong tình yêu Chúa, cầu nguyện là sức mạnh của Ba Ngôi Thiên Chúa trong thân phận người yếu hèn, dòn mỏng, bởi chỉ cầu nguyện, chúng ta mới được ở lại trong Đức Giêsu và Chúa Cha để niềm vui được trọn vẹn (x. Ga 15,10-11); chỉ cầu nguyện, chúng ta mới được kết hiệp mật thiết với Đức Giêsu để Ngài ở đâu thì ta cũng ở đó với Ngài (x. Ga 17,24), và sinh nhiều hoa trái, như cành nho sinh hoa kết trái, nếu gắn liền với cây nho (x. Ga 15,4-5); chỉ cầu nguyện, chúng ta mới nên bạn hữu của Đức Giêsu để được biêt tất cả những gì Đức Giêsu nghe được từ Chúa Cha (x. Ga 15,15); chỉ cầu nguyện, chúng ta mới khỏi sa chước cám dỗ, không rơi vào cạm bẫy của Satan (x; Mc 14,38); chỉ cầu nguyện, chúng ta mới được ở trong bình an của Đức Giêsu, dù sẽ phải gặp nhiều gian nan, khốn khó (x. Ga 16,33).
Vâng Giáo Hội là Giáo Hội cầu nguyện, nhờ cầu nguyện Giáo Hội ở trong Thiên Chúa và đi dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần, Đấng đã ngự đến làm tràn đầy tâm hồn các tông đồ tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa khi các vị đang cầu nguyện (x. CV 1,14; 2,1-5).
Do đó, trong gian nan, thử thách của cá nhân, của Giáo Hội cũng như của thế giới, như tình trạng đại dịch Covid-19 hiện nay, việc làm quan trọng của toàn thể Giáo Hội là cầu nguyện, vì Chúa đã hứa: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho” (Mt 7,7), và tin vào tình yêu đặc biệt Thiên Chúa dành cho “những kẻ Người đã tuyển chọn” (Mc 13,20).     
3.            Trông đợi  ngày Chúa đến, với Niềm Vui hy vọng của người  được cứu rỗi:
Đức Giêsu, ngay khi cảnh báo những gian nan, khốn khó sắp xẩy đến, cũng không quên đặt tất cả vào bối cảnh, đòi hỏi và ưu tiên của Truyền Giáo: “Người ta sẽ nộp anh em cho hội đồng, hội đường; anh em sẽ bị đánh đòn… Nhưng trước tiên, Tin Mừng phải được rao giảng cho mọi dân tộc” (Mc 13,9-10).  
Tiếp đến Ngài nhấn mạnh: “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” Mc 13, 13).
Như thế, Đức Giêsu muốn Giáo Hội đặt ưu tiên của việc truyền giáo trên tất cả mọi công việc, và lo lắng khác, kể cả chuyện ngày tận thế, và những ý nghĩ băn khoăn muốn biết khi nào Chúa đến, bởi ngày tận thế, Thiên Chúa “sẽ sai các thiên sứ đi, và Người sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời” (Mc 13,27).
Hình ảnh này rất tích cực, rất phấn khởi và không có gì làm sợ hãi, bởi đông đảo những người được tuyển chọn “từ bốn phương, từ đầu mặt đất đến cuối chân trời” sẽ tụ họp quanh Nhan Thánh Thiên Chúa để nhận phần thưởng, như thị kiến của thánh Gioan trong sách Khải Huyền: “kià một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế” (Kh7,9), “Bấy giờ tôi thấy trời mới, đất mới, vì trời cũ, đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa. Và tôi thấy Thành Thánh Giêrusalem mới, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón tân lang. Rồi tôi nghe từ phía ngai có tiếng hô to: “Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân Người, còn chính Người sẽ là Thiên Chúa -ở-cùng- họ. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,1-4).
Thực vậy, Niềm Hy Vọng  ngày Chúa trở lại  được bảo đảm trăm phần trăm là ngày hạnh phúc, vì không chỉ tin ở Lời Hứa: “Thầy ở cùng với anh em mọi ngày cho đến ngày tận thế” (Mt 28,20), chúng ta còn tin vào lời trấn an của Đức Giêsu: “Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay Người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi” (Mc 13,32).
Điều này nói lên tính “không quan trọng” của việc biết trước hay đoán trước ngày tận thế so với sứ vụ loan báo Tin Mừng (x. Mc 13,10), so với việc tỉnh thức cầu nguyện (x. Mc 13,33), so với bổn phận sống Đức Ái (Ga 15,12), so với lòng trông cậy, bền chí trong gian nan, thử thách của đời người Kitô hữu trên đường làm chứng Nước Trời (Mc 13,13), bởi niềm hy vọng không gì có thể lay chuyển ở chúng ta, chính là: “Đức Giêsu đã tự hiến tế chỉ một lần, để xóa bỏ tội lỗi muôn người. Người sẽ xuất hiện lần thứ hai, nhưng lần này không phải để xóa bỏ tội lỗi, mà để cứu độ những ai trông đợi Người (Dt 9,28).
Ước gì mỗi người luôn sống bình an trong niềm hy vọng “trông đợi ngày Chúa đến”, bằng cố gắng và bền chí mỗi ngày để trở nên “chứng nhân” của Thiên Chúa tình yêu, Đấng đến không phải để “ăn trộm, giết hại và phá hủy” (Ga 10,10), và làm đoàn chiên hoảng sợ, tán loạn, nhưng để yêu thương, băng bó, chữa lành, phục vụ và  hiến mạng sống để chiên được bình an, được no nê, ấm áp, “được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
Jorathe Nắng Tím