Tìm kiếm Blog này

Thứ Sáu, 13 tháng 11, 2020

TIN MỪNG CHO MUÔN DÂN

 



Đặc ân và vinh dự là dân riêng : dân được Thiên Chúa Giavê tuyển chọn, dân được Thiên Chúa yêu riêng, dân được Thiên Chúa bảo vệ đặc biệt đã khiến một số không nhỏ người dân Ítraen rơi vào tự mãn, tự phụ, kiêu căng, kỳ thị thể hiện qua cơ cấu tổ chức tôn giáo chặt chẽ, quyền lực, chức sắc lãnh đạo tôn giáo uy quyền, độc đoán và dân tộc khép kín, co cụm, kỳ thị, tự cô lập, cách biệt khỏi mọi dân tộc khác, mà cả bốn Tin Mừng đều ghi lại.

Thực vậy, những lời trách mắng kinh sư và những người Pharisêu (x. Mt 23), cũng như những lần gặp gỡ, chữa bệnh, và tuyên dương đức tin người ngoại đạo của Đức Giêsu bị đồng đạo, đồng bào Do Thái bực bội, khó chịu trong Tin Mừng đã cho chúng ta cảm được phần nào bầu khí rất khép kín, kỳ thị của người Do Thái lúc bấy giờ đối với các quốc gia lân bang, do não trạng dân riêng.

Chính Đức Giêsu đã công khai lên án não trạng, và lối sống kỳ thị của họ, như khi kể dụ ngôn “những người làm vườn nho sát nhân” (Mc 12,1-9). Dụ ngôn bắt đầu bằng : “Có người kia trồng được một vườn nho ; ông rào giậu chung quanh, đào bồn đạp nho và xây một tháp canh. Ông cho tá điền canh tác rồi trẩy đi xa...” (Mc 12,1), và kết thúc : “Ông sẽ đến tiêu diệt các tá điền, rồi giao vườn cho người khác” (Mc 12,9), bởi vì tá điền được ông giao trông nom vườn nho của ông đã không đón nhận bất cứ đầy tớ nào khác của ông gửi đến để thu hoa mầu, ngay cả người con trai duy nhất của ông.

Đây là hình ảnh của “dân riêng” kiêu căng, sở hữu đã dẫn đến bạo lực kỳ thị các dân tộc khác. Sự thật đã được chính Đức Giêsu khẳng định trước các thượng tế và người Pharisêu trong Tin Mừng Matthêu : “Bởi đó, tôi nói cho các ông hay : Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi” (Mt 21,43).

Vì thế, rất hiếm những người Do Thái như cụ già Simêon đã nhận ra ý muốn cứu độ mọi người, mọi dân tộc của Thiên Chúa, và chúc tụng Ngài khi được ẵm Hài Nhi Giêsu, trong ngày Hài Nhi chịu phép cắt bì : “Muôn lậy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân : Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Ítraen Dân Ngài” (Lc 2,29-32).   

Qủa thực, Tin Vui chúng ta chờ mong trong muà Trông Đợi là tin vui Chúa thương mọi người, Chúa đến cứu mọi người, Chúa ban bình an cho mọi người, chứ không chỉ cho một số người, một đoàn thể, một tổ chức, một dân riêng ; Tin Mừng chúng ta trông mong trong Mùa Vọng là Tin Mừng Thiên Thần loan báo cho các mục đồng trong đêm Giáng Sinh : tin Thiên Chúa được vinh danh trên các tầng trời, và tất cả mọi người dưới thế được bình an trong ơn cứu độ của Ngài, nên sẽ không còn một dân riêng như ốc đảo được cứu rỗi giữa đại dương các dân tộc khác bị hủy diệt, cũng không còn một thiểu số ít ỏi được lên trời, còn bao nhiêu con người khác phải xuống hoả ngục. Trái lại, “lòng thương xót của Chúa trải qua đời này đến đời kia”, và ơn cứu độ sẽ đến với mọi tâm hồn, mọi nhà, mọi dân tộc.

Trong Cựu Ước, ngôn sứ Isaia đã được Thiên Chúa chỉ dậy đế báo trước : từ dòng dõi Đavít sẽ sinh ra Đấng cứu độ muôn dân : “Này Ta đặt Đavít làm nhân chứng cho các dân, làm thủ lãnh chỉ huy các nước. Này, ngươi sẽ chiêu tập một dân tộc ngươi không quen biết ; một dân tộc không quen biết ngươi sẽ chạy đến với ngươi…” (Is 55,4-5). Quây quần quanh Đấng Cứu Độ là Đức Giêsu, “dân dân lũ lượt đưa nhau tới, nước nước dập dìu kéo nhau đi. Rằng : “Đến đây, ta cùng lên núi Đức Chúa… Người sẽ làm trọng tài giữa các quốc gia và phân xử cho muôn dân tộc. Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cầy, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau, và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến” (Is 2,2-3.4).

Thực vậy, niềm trông đợi của muôn dân, Tin Vui cho toàn thể nhân loại đã được thực hiện khi “một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hoà bình” (Is 9,5).

Nếu ngôn sứ Isaia loan báo Tin Vui Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra từ dòng dõi Đavít, và ơn cứu độ của Ngài trải xa đến các dân tộc, nghiã là lòng thương xót của Ngài vượt ra ngoài biên giới, lãnh thổ dân riêng, thì ngôn sứ Giôna là ngôn sứ duy nhất Thiên Chúa sai đến với dân ngoại ở Ninivê vào thế kỷ thứ tám trước công nguyên, như sách các Vua đã ghi lại : “Chính vua đã thiết lập biên giới Ítraen từ Cửa Ải Khamát cho đến biển Arava, như lời Đức Chúa, Thiên Chúa của Ítraen, đã dùng tôi trung của Người là ngôn sứ Giôna, con ông Amíttai, quê ở Gát Khêphê, mà phán” (2 V 14,25).

Sách của ngôn sứ Giôna có thể được viết sau thời gian lưu đầy, khoảng giữa những năm 450 và 350 trước Công Nguyên. Nội dung cuốn sách là lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho dân ngoại, đặc biệt là dân ngoại ở Ninivê.

Giôna được Thiên Chúa gọi và sai đến Ninivê, lãnh địa của dân ngoại, “một thành phố lớn, và hô cho dân thành biết rằng sự gian ác của chúng đã thấu tới Ta” (Gn 1,2), nhưng Giôna không muốn đến với dân ngoại như bài sai của Thiên Chúa, nên “trốn đi Tácsít, tránh nhan Đức Chúa” (Gn 1,3). Ông xuống tầu trốn đi, với hy vọng khỏi phải đến Ninivê loan báo cho dân ngoại ăn năn, sám hối để khỏi bị Thiên Chúa hủy diệt. “Nhưng Đức Chúa tung ra một cơn gió to trên biển, và liền có một trận bão lớn ngoài khơi, khiến tầu tưởng chừng như sắp vỡ tan” (Gn 1,4). Và chỉ đến khi Giôna bị thủy thủ đoàn phát hiện đã “trốn đi để tránh nhan Đức Chúa”, và bị họ ném xuống biển thì biển mới lặng, sóng mới yên và tầu mới vào được đất liền.

Phần Giôna, “Đức Chúa đã khiến một con cá lớn nuốt ông”. Sau ba ngày trong bụng cá, ông được cá “mửa ra trên đất liền”. Từ đây, ông đi đến Ninivê, nơi ông được Thiên Chúa sai đến loan báo cho dân ngọai phải sám hối, ăn năn. Kết qủa là từ vua đến dân, “người và súc vật phải khóac áo vải thô và hết sức kêu cầu Thiên Chúa. Mỗi người phải trở lại, bỏ đường gian ác và những hành vi bạo lực của mình” (Gn3,8). “Thiên Chúa thấy việc họ làm, thấy họ bỏ đường gian ác mà trở lại, Người hối tiếc về tai họa Người đã tuyên bố sẽ giáng trên họ. Người đã không giáng xuống nữa” (Gn 3,10). 

Tin Vui của ngôn sứ Giôna là tin vui Thiên Chúa không bỏ dân ngoại, và đã làm mọi cách để họ ăn năn sám hối hầu được cứu sống.

Giôna là hình ảnh sống động của dân Do Thái hãnh tiến, kỳ thị đã không muốn ơn cứu độ của Thiên Chúa đến với dân ngoại, nên đã kiếm cách thối lui, từ chối, trốn tránh để không phải đến với dân ngoại như Thánh Ý và bài sai của Thiên Chúa. Thái độ ương ngạnh, bực bội, khó chịu, và thi hành sứ vụ cách bất đắc dĩ của Giôna là thái độ cục bộ của dân riêng Ítraen, thái độ hoàn toàn không phù hợp với “Thiên Chúa từ bi nhân hậu, chậm giận và giầu tình thương, và hối tiếc vì đã giáng họa” (Gn 4,2). Chính Thiên Chúa ấy, Thiên Chúa của dân riêng, nhưng cũng là Thiên Chúa của dân ngoại và các dân tộc đã nói với Giôna khi ông nổi giận, bực tức “đến muốn chết đi cho rồi” vì cây thầu dầu có bóng mát che nắng cho ông ngồi nghỉ bị héo đi vì một con sâu cắn : “Ngươi, ngươi thương hại cây thầu dầu mà ngươi đã không vất vả vì nó, và không làm cho nó lớn lên ; trong một đêm nó đã sinh ra, rồi trong một đêm lại chết đi. Còn Ta, chẳng lẽ Ta lại không thương hại Ninivê, thành phố lớn, trong đó có hơn một trăm hai mươi ngàn người không phân biệt được bên phải bên trái, và lại có rất nhiều thú vật hay sao?” (Gn 4,10-11). Ý Chúa muốn nói đến hơn một trăm hai mươi ngàn em bé vô tội…

Thực vậy, Tin Mừng chúng ta đợi chờ, Tin Vui chúng ta ngóng đợi, chính là muôn dân được cứu rỗi, toàn thể nhân loại tội lỗi được Thiên Chúa thứ tha, xóa tội, và người được hưởng Tin Vui ấy, đối tượng được nhận Tin Mừng ấy chính là chúng ta vốn là dân ngoại, dân bên ngoài, dân xa lạ so với Ítraen là dân riêng, dân được tuyển chọn.

Là dân được đón nhận Tin Mừng Chúa xót thương nhân loại, dân tộc mới được cứu rỗi, chúng ta phải thay đổi cái nhìn đối với thế giới dân ngoại, thay đổi tâm tình với người anh em chưa biết Chúa, thay đổi thái độ đối với anh em trong các tôn giáo bạn, nhất là thay đổi trái tim chai đá, cằn cõi, khô héo, và thay bằng qủa tim bằng thịt hay chạnh lòng, giầu thương xót, từ tâm, nhân hậu, quảng đại, cởi mở với mọi người như trái tim của Đức Giêsu, Thiên Chúa Cứu Độ, Đấng chúng ta hằng trông đợi.

Jorathe Nắng Tím   

NGƯỜI CHO - KẺ NHẬN

 


     Có ai suốt đời chỉ cho hoặc nhận, mà không nhận và cho, bởi ai cũng có lúc cho, và lúc nhận, khi là kẻ nhận, khi là người cho, vì cho - nhận là hạnh phúc, và nghiã vụ của mỗi người suốt đời làm người.

Qủa thực, ai cũng phải nhận : nhận tình yêu và hy sinh trời bể của cha mẹ, anh chị em, vợ con, thân nhân, bạn hữu ; nhận lòng tốt và giúp đỡ của rất nhiều người, nhận kiến thức của cả loài người từ cổ chí kim, nhận thành qủa khoa học của vô số người tài giỏi, xuất chúng để đời sống mỗi ngày được bảo đảm an toàn, thoải mái, hạnh phúc hơn ; cả khi nhắm mắt chết rồi cũng còn nhận đươc từ nhiều người lời cầu nguyện, tâm tình lưu luyến, tiếc thương.

Bên cạnh niềm vui lãnh nhận, hạnh phúc được chia sẻ, con người còn niềm vui khác lớn hơn là cho đi, hạnh phúc sâu đậm hơn là trao ban, dâng hiến. Chúng ta có thể không nhận ra mình đang trao ban, khi tận tụy làm việc, âm thầm đóng góp công sức cho sinh hoạt vật chất, tinh thần cũng như tâm linh của nhiều người chúng ta thương, hoặc có bổn phận ; chúng ta cũng có thể không để ý đến những việc mình làm, tuy nhỏ bé, nhưng giúp nhiều người được hạnh phúc hơn, nhưng giá trị của trao ban, dâng hiến thì không bao giờ sút giảm hay mất đi, nhưng mang lại cho chúng ta niềm hạnh phúc, bình an sâu lắng.  

Tóm lại, sống là nhận lãnh và trao ban. Không có người chỉ cho mà không nhận, cũng chẳng có ai chỉ nhận mà không cho. Thiếu một trong hai, cuộc sống sẽ lệch lạc, mất quân bình, vì vô nghiã.

Vô nghiã khi tính liên đới ở con người không được thể hiện, phát triển ; vô nghiã khi tính xã hội bị ngộp thở, bức tử ; vô nghiã khi hạnh phúc tương trợ giữa người với người không có đất sống, và tất cả dồn con người vào tình trạng cô độc làm hao mòn, cạn kiệt sức sống, tàn phá khả năng sống hạnh phúc là mục đích của đời sống con người, bởi chỉ nhận mà không cho, chỉ cho mà không nhận, cả hai đều không đem đến hạnh phúc đích thực, và viên mãn.      

Nhưng Cho và Nhận thế nào?

Bởi có nhiều người cho như bố thí, cho như “hất vào mặt”, khi thái độ cho không biểu lộ lòng tôn trọng, không trân trọng người nhận và cũng chẳng trân qúy của được cho ; bởi có nhiều người cho cách lạnh lùng, lãnh đạm, thờ ơ, cho để được yên thân, cho để khỏi bị quấy rầy, phiền phức, cho để bỏ đi những gì không còn  cần thiết, bởi có nhiều người vừa cho vừa the thé kể lể công lao, vừa cho vừa bắt người nhận phải “phủ phục” trước công đức cao dầy của mình, vừa cho vừa kê hoá đơn, vừa cho vừa dậy bảo, lên lớp, dằn mặt người nhận…

Cho như thế không phải là cho, mà là bỏ đi những đồ mình không cần, khi coi người nhận như thùng rác để tha hồ vứt bỏ những đồ phế thải, hết xài.

Về phiá người nhận, có người nhận lòng tốt của người cho như nhận một tai ương, nhận một gánh nặng, khi tỏ thái độ không vui, nhưng khó chịu, bực dọc. Nhận món qùa nhỏ, không mấy có giá trị vật chất thì bĩu môi, lắc đầu khinh miệt người cho ; nhận món đồ không vừa ý thì giẫy nẩy kêu trời ; nhận qùa tặng không thích, thì sầm nét mặt, giận dỗi người cho.

Nhận như thế là nhận với tinh thần kẻ cả, vua chúa, khi cho rằng mọi người đều có bổn phận “triều cống”, biếu xén mình, vì mình là người nắm quyền sống chết trên mọi người. Nhận như vậy là nhận với trái tim kiêu căng coi người cho chẳng ra gì, và tặng vật không bao giờ xứng đáng, phù hợp với địa vị, vai vế của mình.

Đó là lý do nhiều người đã không muốn cho, lý do nhiều người đã thất vọng khi dấn thân làm từ thiện, mà trên mạng lúc này nhan nhản những câu chuyện được kể lại bởi những anh chị em trong các chương trình thiện nguyện đó đây, những câu chuyện làm cả người cho và người nhận đều “dở khóc dở cười”.

“Dở khóc dở cười” khi người cho bị người nhận hạch hỏi đủ điều, nào là tiền từ đâu, tại sao không cho mọi người đồng đều, sao không làm thế này thế kia, vân vân và vân vân? Chưa kể người cho còn bị người nhận gọi điện thoại, hay chặn xe hùng hổ, dữ tợn đe dọa…

“Dở khóc dở cười” khi người nhận bị người cho “hành tới bến” khi điều tra hết vòng ngoài đến vòng trong, hết qua tổ chức này đến tổ chức nọ trước khi được nhận đồ cứu trợ. Điều tra đã đành, nhưng có khi còn lên lớp, mắng nhiếc, thì qủa là khổ thân cho người nhận trong cảnh thiếu thốn cùng cực phải cắn răng cậy nhờ  sự giúp đỡ của người khác.

Nếu phải kể ra những chuyện “dở khóc dở cười” thì nhiều lắm, và có lẽ chẳng bao giờ hết chuyện để kể. Vấn đề ở đây là làm thế nào cả người nhận và người cho có thể hạnh phúc khi cho và nhận.

Chúng ta tạm để qua một bên số rất ít những người cho với mục đích ích kỷ, tìm tư lợi bất chính, theo kiểu “cho con tép để bắt con tôm”, còn lại phần đông khi làm thiện nguyện đều hướng đến một mục đích tốt, được thúc đẩy bởi động cơ tốt.

Khác với người cho, về phía người nhận, thì tâm tình và thái độ rất phức tạp, vì có người nhận luôn tự cho mình cái quyền phải được người khác giúp đỡ, cái quyền phải được người khác cho, cái quyền được hạch hỏi người cho, vì nghĩ rằng người cho đã nhân danh mình mà kiếm chác những mối lợi ngàn lần lớn hơn, đã lợi dụng cảnh khổ của mình mà đánh bóng tên tuổi, làm giầu ; lại có những người xem thường, coi nhẹ lòng tốt của người cho, khi nghĩ rằng : không cho mình, họ cũng cho người khác, nên không việc gì phải bận tâm, nặng lòng.

Suy nghĩ cho cùng, chúng ta sẽ thấy cả hai bên người nhân và người cho đều thiếu một Tình Yêu Biết Ơn. Đây là mấu chốt của mọi vấn đề, nguyên nhân của những câu chuyện “dở khóc dở cười” khi cho và nhận.

Nếu người cho có trong trái tim Tình Yêu Biết Ơn khi cho, người ấy sẽ không cho một cách trịch thượng, kẻ cả, cho nhưng thiếu tôn trọng người nhận, cho nhưng làm tổn thương người được cho, bởi Tình Yêu Biết Ơn nhắc cho họ công ơn của bao nhiêu người đã cho họ, từ tình yêu, sự sống, đến kiến thức, nghề nghiệp và cơ hội thành công. Tình yêu Biết Ơn sẽ nói cho họ đừng quên đời họ đã được làm nên nhờ lòng tốt và công sức của bao nhiêu người để họ được ở vào vị trí người cho hôm nay, nên việc làm cho đi, dâng hiến, trao ban của họ là hành động đền đáp, trả ơn những người đã cho họ, những ân nhân đã góp tình yêu, công sức, lao nhọc xây dưng đời họ, mà họ không được gặp lại để trực tiếp đền ơn, đáp nghiã. Cũng vì không được gặp lại tất cả những ân nhân đã làm ơn cho mình, mà họ phải biết làm ơn cho người khác là những người xa lạ, không quen biết, vì đó là nghiã vụ của tình yêu biết ơn.

Với tình yêu biết ơn khi cho đi, người cho sẽ không cho với kiểu cách của kẻ có quyền, nhưng với tâm tình của người chịu ơn, với thái độ của người đang làm nghiã vụ đền ơn những người đã làm ơn cho mình, bằng cách làm ơn, giúp đỡ  người khác. Và tâm hồn người cho sẽ tràn đầy hạnh phúc của tình yêu biết ơn.

Với người nhận, nếu tình yêu biết ơn ở trong tim, mắt người ấy sẽ nhìn thấy tình yêu trong tim  người cho, hy sinh trên đôi chân người cho khi vượt sông vượt núi, bất chấp nguy hiểm đến với họ nơi xa xôi, hẻo lánh, bão lụt ; nếu có tình yêu biết ơn ở trong tâm hồn, miệng người nhận sẽ không buông ra những lời ác độc vô ơn, nhưng thân thương huynh đệ ; nếu có tình yêu biết ơn trong đáy lòng, hạnh phúc sẽ lớn gấp bội, vì họ không chỉ nhận qùa tặng vật chất, mà còn nhận được chính trái tim ăm ắp tình yêu của người cho ; nếu có tình yêu biết ơn trong thái độ nhận lãnh, niềm vui sẽ tăng gấp ngàn lần, vì không niềm vui nào có thể so sánh với niềm vui khi biết mình được được yêu thương và được quan tâm chia sẻ, giúp đỡ.

Vâng, chúng ta rất cần tình yêu biết ơn trong cuộc sống, nhất là ở thời đại này, khi lòng biết ơn bị mất giá thảm hại, và tình yêu không còn là giá trị được mọi người trân qúy, gìn giữ. Nhưng rất tiếc, thiếu tình yêu biết ơn, đời sống không vui, không hạnh phúc, vì người cho kẻ nhận luôn làm tổn thương nhau, bắt nhau phải “dở khóc dở cười”, khi không yêu thương, biết ơn nhau, trong khi luật xã hội  không cho con người sống mà không biết cho và nhận, và niềm vui, hạnh phúc được làm người không đến với người chỉ nhận mà không cho, chỉ cho mà không nhận với tình yêu biết ơn người.  

Jorathe nắng Tím