Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 15 tháng 3, 2021

HẠT LÚA “THIÊN CHÚA LÀM NGƯỜI”

 

Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 5 Mùa Chay, năm B

Trong Tin Mừng nhất lãm, Đức Giêsu đã công khai nói với các môn đệ ít là ba lần về cuộc tử nạn và phục sinh sắp tới của Ngài : “Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ kết án xử tử Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại nhạo báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá, và ngày thứ ba, Người sẽ trỗi dậy” (Mt 20,18-19). Nói điều này, Đức Giêsu đã làm sợ hãi và nản lòng các môn đệ, vì không ai đi theo Ngài đã nghĩ đến thảm cảnh Thầy mình sẽ bị kết án tử và đóng đinh là hình phạt nặng nề nhất chỉ dành cho tội phạm nguy hiểm. Chính vì thế Phêrô, tông đồ trưởng, tuy ở gần và yêu mến Thầy hơn các anh em khác cũng không đủ bình tĩnh cầm lòng, nhưng đã bức xúc lên tiếng can ngăn : “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!”, và ông đã bị Đức Giêsu quở trách : “Xatan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16,22-23). 

Hôm nay Tin Mừng Gioan kể lại câu chuyện giữa Đức Giêsu và hai ông Philipphê, Anrê cùng những người  Hy Lạp được hai ông dẫn đến. Trong dịp này, Đức Giêsu cũng đề cập đến việc Ngài sẽ phải chết trong tay những kẻ chống đối, quyết tâm tiêu dệt Ngài, nhưng khác những lần loan báo trước, lần này, Ngài dùng hình ảnh hạt lúa : “Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình ; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu qúy mạng sống mình, thì sẽ mất ; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12,24-25).

Hình ảnh hạt lúa thật gần gũi với mọi người, và là hình ảnh gây nhiều ấn tượng, bởi ai cũng biết hat lúa phải được chôn vùi trong đất mới nẩy mầm, sau khi thối rữa. Nhưng chính từ tình trạng thối rữa của hạt lúa mà “sự sống mới” được trổ sinh, và đem lại nhiều bông hạt. Khi dùng hình ảnh hạt lúa, Đức Giêsu không chỉ loan báo việc Ngài sẽ phải chết và sống lại mà thôi, mà còn cho các môn đệ thấy “Con Người Thiên Chúa” của Ngài, mầu nhiệm nhập thể làm người của Ngài. Nói cách khác, Ngài mạc khải cho chúng ta : Ngài vừa là Thiên Chúa, vừa là con người, với hai bản tính Thiên Chúa và con người :

1.   Như hạt lúa sẽ bị thối rữa đi, Đức Giêsu mang lấy số phận phải chết của con người :

Phận người đáng thương nhất là “biết mình phải chết”. Mọi loài thụ tạo đều phải chết, trừ các thiên thần là thụ tạo thiêng liêng, nhưng con người đáng thương hơn tất cả, vì biết mình sẽ chết, biết thân xác tươi tốt, vạm vỡ, xinh đẹp của mình sẽ thối rữa, tiêu tan một ngày, trong khi con vật tuy cũng chết nhưng không biết mình phải chết. Chính vì “biết” mà phận người đắng đót, đau thương!

Đức Giêsu mang lấy phận người, khi xuống thế làm người. Như mọi người, Ngài lệ thuộc những điều kiện, và giới hạn của kiếp người, và chết là sự thật khủng kiếp đáng kinh sợ nhất, như chính Ngài đã xao xuyến, bồi hồi, hoảng hốt trước giờ lên đường đi chịu chết (x. Ga 2,27).

Nhưng số phận phải chết ở con người không đơn thuần tự động như cỗ máy đến thời hạn phải ngưng, vì con người có quyền và bổn phận trên cái chết của mình, khi cho nó một hướng đi, một đích tới, một giá trị, một ý nghiã mà ngoài bản thân mình, không ai có thể thay thế đảm trách quyền lợi và nghiã vụ tuyệt đối riêng tư này. Chính Đức Giêsu đã khẳng định : “Ai yêu qúy mạng sống mình, thì sẽ mất ; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12,25). Như thế, bản thân mỗi người có quyền yêu hoặc không yêu mạng sống ; có quyền chọn cho mạng sống mình một tuyến đường, một đích điểm ; có quyền định đoạt tương lai đời đời cho mạng sống, bởi nếu sự chết toàn quyền định đọat mạng sống như toàn quyền trên thân xác, thì Đức Giêsu đã không nói với chúng ta về những khả thể yêu - ghét, mất - còn, tạm bợ - đời đời của mạng sống.   

2.   Như hạt lúa vâng phục chấp nhận bị chôn vùi, thối rữa, Đức Giêsu mang tất cả sức mạnh toàn năng và sự sống viên mãn của Thiên Chúa :

Hạt lúa thối rữa, nhưng không tiêu tan “vô tích sự”. Trái lại, nó thối rữa để nẩy mầm, đội đất mọc lên thành cây lúa, trổ sinh những bông hạt. Tiếng nói từ trời của Chúa Cha : “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!”, khi Đức Giêsu ngước mắt cầu nguyện : “Lậy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đến. Lậy Cha, xin tôn vinh Danh Cha” (Ga 12,27-28) đã làm chứng thiên tính của Đức Giêsu, chứng thực Ngài là Con Thiên Chúa, Đấng Thiên Chúa sai đến để cứu nhân loại trước nhiều người, nên cũng từ Ngài, từ bản tính Thiên Chúa của Ngài, sự sống trỗi dậy từ cõi chết, sức sống bùng phát từ “thối rữa” của hạt lúa bị chôn vùi, bởi ở nơi Ngài luôn hiện diện Ba Ngôi Thiên Chúa, trong Ngài luôn đầy tràn sức mạnh và sự sống viên mãn, đời đời của Đấng Toàn Năng.

Thánh Phaolô đã qủang diễn “hạt lúa vâng phục” là Đức Giêsu trong thư gửi cộng đoàn Do Thái : “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục ; và khi chính bản thân đã đến mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người” (Dt 5,7-9).

Qủa thực, chính trong Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người, chúng ta được chết với Thiên Chúa, vì Đức Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa đã chết với chúng ta ; chính cùng với Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người, chúng ta cho cái chết của mình  những giá trị và ý nghiã đời đời, khi được cùng với Thiên Chúa tiến về vương quốc vĩnh cửu của Ngài, vì Con Một Thiên Chúa đã  đích thân dắt chúng ta đi với Ngài đến tận mộ phần tăm tối của sự chết ; chính nhờ Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người, chúng ta được sống lại và hưởng vinh quang phục sinh với Ngài, vì “nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người” (2 Tm 2,11) .

Vâng, Đức Giêsu là Hạt Lúa của Thiên Chúa nuôi sống nhân loại, Hạt Lúa tuyệt đối vâng phục thánh ý Chúa Cha xuống thế làm người để chịu chôn vùi, thối rữa với con người phải chết, Hạt Lúa Thiên Chúa là “sự sống lại và sự sống” (Ga 11,25) cho con người đáng phải chết được sống lại và sống đời đời.

Jorathe Nắng Tím

Thứ Hai, 8 tháng 3, 2021

TIẾN VỀ ÁNH SÁNG CỨU ĐỘ

 

Suy niệm Tin Mùng Chúa Nhật 4 Muà Chay, năm B

 Muà Chay không là mùa tang thương, thất vọng nhưng là mùa của Yêu Thương, Hy Vọng, muà Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu, bao dung, và tội nhân được nhìn thấy và tiến về ánh sáng  cứu độ.

Bài đọc thứ nhất ghi lai bối cảnh lịch sử của Ítraen vào năm 586 trước công nguyên, thời điểm Đền Thờ Giêrusalem bị tàn phá bởi quân đội Babylon với cảnh tượng thật đau thương, kinh hoàng: Vua Canđê tiến đánh Ítraen ; “vua này dùng gươm giết các thanh niên ngay trong Thánh Điện của họ, chẳng chút xót thương, bất kể thanh niên thiếu nữ, kẻ đầu xanh cũng như người tóc bạc… Quân Canđê đốt nhà Thiên Chúa, triệt hạ tường thành Giêrusalem, phóng hoả đốt các lâu đài trong thành và phá hủy mọi đồ đạc qúy giá. Những ai còn sót lại không bị gươm đâm, thì vua bắt đi đày ở Babylon ; họ trở thành nô lệ của vua và con cháu vua cho đến thời vương quốc Ba Tư ngự trị” (2 Sb 36,17.19 -20). Và suốt 70 năm bị lưu đầy trên đất Babylon, người dân Ítraen đã không một ngày nguôi ngoai nỗi đau mất nước, nỗi nhớ quê hương, nỗi tủi nhục không còn Đền Thánh, nỗi khổ làm thân nô lệ, nên thường rủ nhau ra bờ sông Babylon nức nở khóc tưởng nhớ Xion (x. Tv 136).

Trong nước mắt ngậm ngùi trên đất Babylon những năm tháng dài nô lệ, Ítraen vẫn được các ngôn sứ của Thiên Chúa nhắc bảo : “Đức Chúa, Thiên Chúa của tổ tiên họ hằng thương xót dân và thánh điện của Người” (2Sb 36,15). Và này, Thiên Chúa đã dùng tay Kyrô, vua Ba Tư cất gánh nô lệ, và trả tự do cho dân, đồng thời cho họ được trở về quê hương, xây dựng lại Đền Thờ, như chính lời vua phán : “Đức Chúa, Thiên Chúa trên trời, đã ban cho ta mọi vương quốc dưới đất. Chính Người trao cho ta trách nhiệm tái thiết cho Người một ngôi Nhà ở Giêrusalem tại Giuđa. Vậy ai trong các ngươi thuộc dân Người, thì xin Đức Chúa, Thiên Chúa của họ ở với họ, và họ hãy tiến lên…!” (2Sb 36,23).

Ai có thể tả được niềm vui của một dân tộc từ bẩy mươi năm nay phải sống trong cảnh tang thương vì mất nước, trong sầu muộn vì phần lớn đã bị tiêu diệt, trong vất vả, nhục nhằn vì những ai sống sót phải biệt xứ làm nô lệ bỗng dưng  được trả tự do, được hồi hương, và xây dựng lại đất nước? Ai hiểu được nỗi sung sướng của những người ở tận cùng bất hạnh bỗng nhiên được Thiên Chúa xót thương, ban lại hạnh phúc đã mất?

Thực vậy, những gì Thiên Chúa đã thực hiện với dân Ngài trong Cựu Ước, Ngài cũng làm như vậy với mọi dân tộc trong Tân Ước. Nếu vì lòng thương xót, Thiên Chúa Giavê đã cứu dân Ngài khỏi những năm tháng dài nô lệ ở Babylon, thì Thiên Chúa của Đức Giêsu, Đấng “giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta”, cũng cứu chúng ta khỏi chết vì sa ngã và “cho chúng ta được sống với Đức Kitô” (Ep 2,4.5). Đây chính là niềm vui ơn cứu độ mà chúng ta được đón nhận trong Đức Giêsu, niềm vui mà không mấy khi chúng ta thấy được tầm vĩ đại, lớn lao, và giá trị vô cùng cao qúy ; niềm vui mà rất ít người cảm được sự dịu ngọt vô tận, không gì so sánh được, vì không nhận ra gánh tội rất nặng nề đáng ghê tởm và kinh sợ đè trên đời mình. Cũng như dân Ítraen năm xưa, nếu đã không phải sống bẩy thập niên nô lệ dài đẵng đẵng trên đất người, phải chịu cảnh áp bức, đầy đọa của dân mất nước, không còn quê hương, thì chưa chắc họ đã cảm nhận niềm vui được cứu thoát, hạnh phúc được về lại quê cha đất tổ, và xây dựng lại Đền Thờ.    

Đó là lý do Giáo Hội mời gọi chúng ta cùng tiến về gặp gỡ Đức Giêsu là  niềm vui của tội nhân được tha bổng, của phạm nhân được trắng án, khoan hồng, của người con yếu đuối, hoang đàng được tình Cha thương xót, bao dung, khi sống niềm hy vọng của  Mùa Chay, bằng đi tìm và tiến về ánh sáng cứu độ là Đức Giêsu, như ông Nicôđêmô, để được biết mình đang hạnh phúc bơi lội trong đại dương ơn cứu độ, khi nghe từ chính miệng của Ngôi Lời : “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Qủa vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3,16-17).  

Vâng, ánh sáng cứu độ phải là ngọn hải đăng cho hành trình đức tin của mỗi người, bởi không thiếu những lúc lòng ta tan nát, thất vong như tâm hồn sầu muộn  của kẻ lưu đầy “bên bờ sông nức nở khóc, trên cành dương liễu treo cây đàn, đến cả bài ca kính Chúa, cũng không sao hát nổi” (x. Tv 136,1.2.4).

Jorathe Nắng Tím 

Thứ Hai, 1 tháng 3, 2021

ĐỨC GIÊSU : ĐỀN THỜ MỚI CỦA THIÊN CHÚA

 

Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật 3 Mùa Chay, năm B

Với người Do Thái, Đền Thờ Giêrusalem là trung tâm tôn giáo, nơi tất cả các chi tộc Ítraen tụ tập về, nơi mỗi người tín hữu đến gặp Đức Chúa, bởi Đền Thờ là dấu chỉ của Giao Ước Giavê Thiên Chúa đã ký kết với dân Ngài (x. Xh 20,1-17), là nhà của  Đức Chúa giữa dân riêng, và là đền thánh của Lề Luật. Chẳng thế mà khi nhắc đến Giêrusalem, tâm hồn người Do Thái nào cũng phấn khởi, vui mừng như lời thánh vịnh : “Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi : Ta cùng trẩy lên đền thánh Chúa. Và giờ đây Giêrusalem hỡi, cửa nội thành, ta đã dừng chân. Giêrusalem khác nào đô thị, được xây nên một khối vẹn toàn. Từng chi tộc, chi tộc của Chúa, trẩy hội lên đền ở nơi đây, để danh Chúa, họ cùng xưng tụng, như lệnh đã truyền cho Ítraen. Cũng nơi đó, đặt ngai xét xử, ngai vàng của vương triều Đavít… Nghĩ tới đền thánh Chúa, Thiên Chúa chúng ta thờ, tôi ước mong thành được hạnh phúc, hỡi thành đô” (Tv 121,1-5.9).

Như mọi con trẻ Do Thái khác, Đức Giêsu ngay từ buổi đầu đời đã được cha mẹ đem lên đền thờ để dâng tiến cho Thiên Chúa (x. Lc 2,22-24), và hằng năm Ngài đều theo cha mẹ “trẩy hội đền Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua” (Lc 2,41), cũng như khi bước vào hành trình công khai loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa, Ngài thường xuyên lên Đền Thờ, vì đền thờ là “nhà của Cha Ngài”, và Ngài có bổn phận, như Ngài đã trả lời cha mẹ, khi hai ông bà tìm thấy Ngài sau ba ngày lac mất : “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2,49).

Cũng như mọi năm, “gần đến lễ Vượt Qua của người Do Thái, Đức Giêsu lên thành Giêrusalem” (Ga 2,13), nhưng lần này thì một biến cố lớn xẩy ra, khi “Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu và những người đang ngồi đổi tiền. Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ” (Ga 2,14-15).

Thật khủng khiếp cơn lôi đình của Đức Giêsu, nhưng còn dữ dội, táo bạo hơn khi Ngài lớn tiếng thách thức : “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi ; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2,19). Và tất nhiên, Đức Giêsu đã gây sốc, khi chạm đến niềm tự hào vô cùng vĩ đại của người Do Thái, bởi “Đền Thờ đã phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong” (Ga 2,20), và được xây hai lần : lần thứ nhất từ thời vua Salômôn thế kỷ X trước công nguyên, và bị quân Babylon phá hủy năm -586 trước công nguyên, ; được xây lại lần thứ hai 70 năm sau, nhưng đến năm 70 sau công nguyên lại bị quân Rôma tàn phá bình địa một lần nữa. 

Chính trong cơn lôi đình và gây sốc này, Đức Giêsu đã báo trước Đền Thờ mới sắp được xây lại là “chính thân thể Người” (Ga 2,21).

Cũng như Đền Thờ Giêrusalem là dấu chỉ của Giao Ước Thiên Chúa đã ký kết với dân riêng của Ngài là Ítraen, Đền Thờ mới là Thân Thể Đức Giêsu, dấu chỉ của Giao Ước mới được ký kết với Thiên Chúa bằng chính máu Ngài, qua hy lễ  Thánh Giá. Giao Ước mới  đã không chỉ được ký kết với một dân tộc, một mầu da, một tiếng nói, nhưng với toàn thể nhân loại, vì Đức Giêsu đã tự hiến mình để cứu chuộc tất cả mọi người, bất phân mầu da, ngôn ngữ, văn hoá, chính kiến, giai tầng, hoàn cảnh… như chính Ngài đã nói với các môn đệ trước khi lên đường đi chịu chết: “Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người” (Mc 14,24).

Vì thế, loan báo Tin Mừng ở người Kitô hữu chính là “rao giảng một Đức Kitô chịu đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ” (1 Cr 1,23), bởi chỉ ở nơi Đức Giêsu chịu đóng đinh, tội lỗi của  mọi người mới được tẩy xóa ; chỉ trong máu của Đức Giêsu, loài người mới được thánh hoá, cứu chuộc, trở nên công chính và được hiện hữu trong Thiên Chúa (x .1 Cr 1,30) ; chỉ trên khuôn mặt của Đức Giêsu, tội nhân mới nhận ra và nhận được sức mạnh cứu rỗi toàn năng của Thiên Chúa được biểu hiện và thể hiện nơi Tình Yêu được trọn vẹn dâng hiến. 

Thực vậy, Đức Giêsu từ nay là Giao Ước mới giữa loài người tội lụy cần được thương xót và Thiên Chúa nhân hậu, giàu lòng xót thương, đồng thời, thân thể của Đức Giêsu trở nên  Đền Thờ của Thiên Chúa giữa loài người, như dấu chỉ của Giao Ước mới, điều Đức Giêsu đã muốn nói, khi lớn tiếng thách thức : “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi ; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại”, mà các môn đệ của Ngài chỉ hiểu được sau khi “Người từ cõi chết sống lại sau ba ngày chôn trong mồ” (x . Mc 8,31 ; 9, 31 ; 10,34).

Vâng, Đền Thờ mới, dấu chỉ của Giao Ước mới  là Thân Thể của Đức Giêsu, mà Thân Thể ấy chính là Giáo Hội, như thánh Phaolô đã khẳng định : “Ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy. Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do Thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể… Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận” (1 Cr 13,12-13.27).

Vì Thân Thể Đức Giêsu là Đền Thờ, và mỗi người chúng ta là chi thể của Thân Thể ấy, nên cũng là những hòn đá sống động xây dựng Đền Thờ của Thiên Chúa giữa loài người…

Vì Thân Thể Đức Giêsu là Hội Thánh, và mỗi Kitô  hữu là chi thể của Thân Thể mầu nhiệm có Đức Giêsu là Đầu, nên cũng là những viên gạch xây dựng Giáo Hội, là Nhà Thiên Chúa giữa nhân loại.

Vì là chi thể của Thân Thể  mầu nhiệm, nên mỗi người chúng ta khi lãnh nhận “Bánh được bẻ ra” sẽ được trở nên Thân Thể của Đức Giêsu, và Đền Thờ của Chúa Thánh Thần, như thánh Phaolô qủa quyết : “Nào anh em đã chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Vậy ai phá hủy Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ hủy diệt kẻ ấy. Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em” (1Cr 3,16 -17).

Ước gì trong Mùa Chay thánh, chúng ta tâm niệm và xác tín : “Không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giêsu Kitô” (1 Cr 3,11), và trên nền móng này, Giao Ước giữa Thiên Chúa với con người được thiết lập và Đền Thờ Thiên Chúa được xây dựng bền vững trên đất người, và trong tâm hồn mọi người.  

Jorathe Nắng Tím 

Thứ Hai, 22 tháng 2, 2021

“CHỈ CÒN ĐỨC GIÊSU VỚI CÁC ÔNG MÀ THÔI” (Mc 9,8)

 

Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật 2 Mùa Chay, năm B

Sáu ngày sau lần thứ nhất loan báo về cuộc thương khó và phục sinh của mình, “Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình… tới một ngọn núi cao. Rồi người biến đổi hình dạng trước mắt các ông” (Mc 9,2). Ba tông đồ này cũng sẽ là ba nhân chứng của giờ phút hãi hùng, kinh khiếp trong vườn Cây Dầu, trước khi bị bắt, ở đó  Đức Giêsu  đã xao xuyến, lo sợ đến nỗi phải thốt lên : “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được” (Mc 14,33).  

Trong cuộc biến hình này, ba tông đồ đã nhận ra vinh quang Thiên Chúa của Thầy mình, và tương quan mật thiết cha - con giữa Thầy và Chúa Cha qua tiếng phán từ trời : “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,7). Cũng lời này đã được Chúa Cha  phán  hôm nào, bên bờ sông Giođan, khi Đức Giêsu đến chịu phép rửa của Gioan (x. Mc 1,11).

Choáng ngợp bởi quang cảnh rực rỡ, hoành tráng khi “thấy ông Êlia cùng ông Môsê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu” (Mc 9,4), cả ba tông đồ đếu ngất ngây và đồng thanh thưa với Đức Giêsu : “Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay!”, và mau mắn đề nghị : “Chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho ông Êlia, một cho ông Môsê” (Mc 9,5.6).   

Ở đây sướng quá là phải rồi, vì sẽ không phải nghe những lời chửi rủa, khích bác của đám Biệt Phái, Kinh Sư độc mồm ác miệng ; sẽ không bị những người giữ đạo cực đoan, qúa khích lên án, xua đuổi ; không phải ăn uống thất thường, vất vưởng đó đây, không nhà không cửa, nhất là không phải nghe những lời tiên báo cuộc thương khó sắp tới và Thầy sẽ “bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, giết chết…” (Mc 8,31).

Nhưng ước mơ ở mãi trên núi Biến Hình với Đức Giêsu, ông Êlia và Môsê  của ba ông sẽ không bao giờ được thực hiện, khi “các ông chợt nhìn quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi” (Mc 9,8). Và đây chính là chi tiết quan trọng trong trình thuật Biến Hình mà người viết xin được chia sẻ với qúy Bạn :

“Chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi”, như  Đức Giêsu là Cứu Chúa duy nhất của chúng ta, vì Đức Giêsu là Tất Cả, như thánh Phaolô khẳng định, khi Thiên Chúa đã chẳng tha chính Con Một của Ngài, “nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?” (Rm 8, 32). Như thế, có Đức Giêsu là có Tất Cả, với Đức Giêsu, chúng ta chẳng còn lo lắng, sợ hãi gì, như lời thánh vịnh : “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi… Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời” (Tv 22,1-3.6).

“Chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi”, như một mình Đức Giêsu  là Tình Yêu thương xót cứu sống mọi người, giống  như Ixaác đã được cứu sống khỏi lưỡi gươm từ tay Ápraham, cha mình, khi sứ thần Chúa kịp thời hiện đến can thiệp : “Ápraham! Ápraham!… Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó!” (St 22,11. 12).

“Chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi”, như chỉ một mình Đức Giêsu là Đấng bảo vệ, che chở chúng ta, và một khi “có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta?” (Rm 8,31).

“Chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi”, như chỉ một mình Đức Giêsu là Đấng thánh hóa, làm cho chúng ta nên công chính, khi tha tội chết, và cho chúng ta sống lại với Ngài, vì ai sẽ có thể buộc tội, nếu Đức Giêsu không buộc tội nhưng  chuộc tội chúng ta? Ai sẽ kết án, nếu Đức Giêsu không kết án, nhưng trắng án cho chúng ta? Thế lực nào có thể bắt chúng ta phải chết, nếu Đức Giêsu đã chết thay cho chúng ta và đã sống lại ngự bên hữu Chúa Cha để chuyển cầu cho chúng ta? (x. Rm 8,33-35).  

Thực vậy, cũng như ba tông đồ sau khi được chứng kiến vinh quang của Đức Giêsu khi Ngài biến hình sáng láng trên núi hôm nào đã cùng Đức Giêsu xuống núi, trở về đời sống thường ngày để tiếp tục đối diện với bao khó khăn, thách đố, nhất là cùng Ngài bước vào đường Thánh Giá đau thương, nhục nhằn, chúng ta cũng được mời gọi đi với Đức Giêsu trên đường đời nhiều chông gai, trắc trở ; được kêu gọi lên thuyền với Đức Giêsu ra khơi nhiều sóng gió nguy hiểm, và  cũng như các tông đồ, “trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm 8,37).

Mùa Chay là thời gian thuận tiện Chúa dùng để biến đổi mỗi người, là cơ hội chúng ta theo Đức Giêsu “đi riêng ra một chỗ” (Mc 9,2), chỉ mình ta với Ngài, để được chiêm ngưỡng tình yêu Chúa Cha dành cho Ngài, cũng là tình yêu Ngài dành cho mỗi người chúng ta, đồng thời để được tình yêu ấy biến đổi, thanh luyện đến độ không một ai, một quyền lực nào có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Giêsu, “cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương qủy lưc, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác” (Rm 8,38-39), bởi hành trình trở về của Mùa Chay là trở về với Đức Giêsu, trở về gặp gỡ Đức Giêsu, trở về sống với Đức Giêsu, trở về kết hiệp nên một với Đức Giêsu, như ba tông đồ sau khi đã thấy mọi vinh quang trên núi, “đã không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi”; như hai môn đệ trên đường Emmau  sầu thảm đã chẳng có ai làm bạn đường, nhưng “chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi” (x. Lc 24,13-35) ; như các môn đệ đóng kín các cửa vì sợ người Do Thái, sau khi Đức Giêsu chết và chôn trong mồ đã “chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi, khi Ngài hiện đến ban cho các ông Bình An phục sinh của Ngài” (x. Ga 20, 19-23).

Như các vị, chúng ta cũng phải cố gắng đạt đến tình trạng “chỉ còn Đức Giêsu với ta mà thôi”, vì trong cuộc đời sẽ có những lúc chúng ta chẳng còn ai, chẳng còn gì, nhưng tất cả đều bỏ ta đi, tất cả đều hững hờ, lãnh đạm, tất cả đều chối từ, xua đuổi, tất cả đều thay mặt đổi lòng, kể cả những người ta dồn hết hy vọng, cho hết tình yêu. Trong những hoàn cảnh bi đát, thê lương ấy, ước gì chúng ta đừng quên “chỉ còn Đức Giêsu với ta mà thôi”, như người tử tội bị đóng đinh bên phải Đức Giêsu ở giây phút cuối cùng của cuộc đời, khi không còn ai đoái hoài , không một ân tình thương cảm, ủi an đã chợt nhớ ra : “ngay bên cạnh mình còn có Đấng Cứu Độ giầu lòng xót thương, giữa cuộc đời cô độc, tội lỗi, bị nguyền rủa, kết án, “còn có Đức Giêsu” ở với và chia sẻ gánh nặng tội lỗi, cũng như thân phận bị lên án, loại trừ của mình .

Ước gì trong Mùa Chay, chúng ta gặp được Đức Giêsu, Đấng không bao giờ xa ta, bỏ ta, cả khi ta không còn ai, và ta bỏ Ngài, nhưng Ngài vẫn yêu ta vô cùng và đến cùng, vì Ngài là Thiên Chúa Cứu Độ rất nhân hậu, bao dung, thương xót.

Jorathe Nắng Tím 

Thứ Năm, 18 tháng 2, 2021

GIAO ƯỚC : ÁNH SÁNG ĐỂ NHẬN RA THẦN KHÍ THIÊN CHÚA

 

Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 1 Mùa Chay, năm B

Cả ba Tin Mừng nhất lãm đều tường thuật biến cố Đức Giêsu chịu cám dỗ trong sa mạc, và cả ba đều bắt đầu bằng sự có mặt và hoạt động của Thần Khí Thiên Chúa, tức Chúa Thánh Thần trên Đức Giêsu : thánh Mátthêu và Máccô  dùng từ Thần Khí : “Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa…” (Mc 1,12) ; “Bấy giờ Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa” (Mt 4,1) ; riêng thánh Luca thì chọn từ Thánh Thần : “Đức Giêsu được đầy Thánh Thần.. Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu qủy cám dỗ” (Lc 4,1-2).

Để hiểu thế nào là Thần Khí, chúng ta cùng đọc tài liệu “Các loại thần khí” của tác giả Hàn Cư Sĩ được đăng trên trang mạng của Dòng Tên Việt Nam ngày 4.5.2017, một bài nghiên cứu có giá trị, mà người viết trân trọng giới thiệu cùng qúy Bạn.

Theo tác giả, “Thần khí là một năng lực vô hình mang tính thiêng liêng, vượt khỏi không gian và thời gian, một sức mạnh tự than có tính siêu phàm, tác động cả bên trong lẫn bên ngoài, có sức mạnh đẩy con người phải làm theo và có thể bị lệ thuộc hoàn toàn. Trong đời sống tâm linh, mỗi Kitô hữu có những lúc phải đối mặt với những thử thách, có thể làm đức tin của con người bị chao đảo, tê liệt hay tắt lịm. Những lúc như thế, con người rất cần phải phân định để biết rõ thần khí nào đang hoạt động nơi linh hồn.

Theo cha Jordan Anmaun o.p, các thần khí có thể được sắp thành ba loai : thần khí của Thiên Chúa, thần khí của ma qủy, thần khí của con người. Thiên Chúa luôn hướng chúng ta về điều thiện hoăc trực tiếp hoặc gián tiếp qua các nguyên nhân phụ. Ma qủy luôn xúi giục chúng ta làm điều xấu, nó hoạt động bằng sức riêng của mình hoặc qua vẻ quyến rũ của những sự vật trần thế. Thần khí của con người có thể hướng về điều xấu hoặc điều tốt, tùy theo cá nhân đó trong lẽ phải hay theo những ước muốn vị kỷ”.

Tin Mừng khẳng định Đức Giêsu được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, thúc đẩy vào hoang địa để chịu qủy cám dỗ. Như thế, mục đích của hành trình vào hoang địa là để chịu cám dỗ bởi Xatan, có biệt danh là “Tên Cám Dỗ” (Mt 4,3) : Bấy giờ tên cám dỗ đến gần Người mà nói : “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi!” (Mt 4,3).

Khi nói với Đức Giêsu điều này, Xatan tỏ ra biết rất rõ  Đức Giêsu là Thiên Chúa. Nói cách khác, vì là thụ tạo thiêng liêng, thần khí của ma qủy không lệ thuộc không gian, thời gian, nên biết chính xác Đức Giêsu là Thiên Chúa, mà không cần phải đi tìm, hay chờ được mạc khải như loài người chúng ta. Ma qủy biết rõ Thiên Chúa, nhưng cái biết Thiên Chúa của ma qủy không là cái biết của con cái biết cha, cái biết của trái tim biết ơn, yêu mến, phụng thờ Thiên Chúa của người môn đệ. Trái lại, cái biết của ma qủy chỉ nhắm đến mục đích phá hoại công trình cứu chuộc loài người của Thiên Chúa. Đó là tình trạng của nhiều người bị thần khí ma qủy hướng dẫn, thúc đẩy đi “tìm tòi Thiên Chúa, học hỏi giáo huấn của Ngài” nhưng  không vì yêu mến và để tuân giữ, mà để bôi bác, phá hoại và làm cho nhiều người khác thù ghét, khinh mạn, bất tuân Thiên Chúa như mình.   

Xatan còn dùng chính Lời Thiên Chúa trong Kinh Thánh để cám dỗ Đức Giêsu khi nói với Ngài : “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng : Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá” (Mt 4,6). Khi trích dẫn chính xác Lời Chúa trong Kinh Thánh, ma qủy tự hào hiểu thấu đáo Kinh Thánh, thuộc lòng Kinh Thánh, rành rẽ từng câu, từng đọan Kinh Thánh, lại còn biết xử dụng Kinh Thánh đúng người đúng việc, đúng nơi đúng lúc, nhưng mục đích của kiến thức Kinh Thánh nơi ma qủy không để giúp người ta yêu mến Thiên Chúa, làm điều thiện, giúp con người sống tốt, trái lại  chúng chỉ tìm đạt một mục tiêu duy nhất là làm hư hỏng con người, đẩy con người vào mê lộ, để tự chuốc lấy bất hạnh, hư vong, và mãi mãi cho đến tận thế, ma qủy quyết tâm thực hiện cho kỳ được muc tiêu này.

Thực vậy, chúng ta đừng tưởng thần khí của ma qủy ngu dốt, đần độn, và hậu đậu, ngay ngô. Trái lại, thần khí của chúng rất tinh ranh, bén nhạy,  xảo quyệt, nhanh như chớp, biến hoá muôn hình trạng, để lôi cuốn, thu hút thần khí của con người vốn dễ chao đảo, lung lay vì dục vọng ích kỷ. Chúng ta cũng đừng lầm tưởng thần khí của ma qủy không biết gì về Lời Chúa. Bằng chứng là Xatan dã vanh vách trích dẫn Lời Thiên Chúa khi cám dỗ Con Thiên Chúa những ngày trong hoang địa.

Tóm lại, Tin Mừng chúa nhật thứ nhất Mùa Chay cho chúng ta thấy cuộc chiến gay go giữa Thần Khí của Thiên Chúa và thần khí của Xatan, nhằm thu phục thần khí của con người.

Chiêm ngắm Đức Giêsu khi vào hoang địa để chịu qủy cám dỗ, chúng ta thấy Ngài đã mang lấy tất cả những gì của con người, kể cả yếu đuối của con người trong những cơn cám dỗ dữ dội, bởi Ngài muốn trở nên như con người trong mọi sự, mọi hoàn cảnh, mọi điều kiện của đời sống, ngoại trừ tội lỗi  để thông cảm với chúng ta trong vất vả chiến đấu, để thương xót chúng ta trong yếu đuối, thất bại, nhất là để dậy chúng ta phân định đâu là thần khí của Thiên Chúa, đâu là thần khí của ma qủy trong  mọi lựa chọn. Chúng ta cũng có thể nói : khi vào hoang địa để chịu  qủy cám dỗ, Ngôi Lời Thiên Chúa đã mang lấy hết nhân loại trong trái tim Ngài, đã gánh vác hết loài người trên thân xác “cảm thấy đói sau bốn mươi đêm ngày ăn chay ròng rã” (Mt 4,2) của Ngài, để cùng con người chiến đấu, và dậy con người chiến đấu với thần khí của ma qủy.

Ngài muốn mỗi người cũng như Ngài được Chúa Thánh Thần hướng dẫn trên mọi nẻo đường, cùng được đầy ơn Thánh Thần như Ngài ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hoàn cảnh vui buồn, hạnh thông, thử thách, mạnh dạn, yếu đuối, thất bại thành công.

Ngài muốn mỗi người cũng như Ngài  dựa vào Lời Chúa để phân định trái phải, xấu tốt, với một trái tim gắn bó với Thần Khí của Thiên Chúa, Thần Khí ấy luôn hướng tâm hồn mỗi người về điều thiện trong tinh thần tự do của con cái Chúa, với ước muốn đi theo Đức Giêsu và thực hiện tình yêu vô vị lợi đối với mọi người.

Ngài bảo đảm : Thần Khí Thiên Chúa luôn mang lại cho chúng ta : “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Gl 5,22-23), là hoa trái của Thánh Thần Tình Yêu.

Nhưng quan trọng hơn cả, Đức Giêsu dậy chúng ta chọn lựa giữa các thần khí, bằng nhớ lại “Giao Ước Thiên Chúa đã ký kết với chúng ta”, bởi chỉ quy chiếu vào Giao Ước khi bị ma qủy, thế gian cám dỗ, chúng ta mới kiên định ở lại trong Chúa, kiên tâm đi theo Chúa, kiên quyết nhận Chúa là Lẽ Sống, Gia Nghiệp đời đời.

Thực vậy, khi bị ma qủy cám dỗ, Đức Giêsu đã không chỉ lấy Lời Thiên Chúa để giập tắt lửa kiêu căng, tham vọng ma qủy đốt lên cám dỗ Ngài, mà còn bám chặt vào Giao Ước giữa Ngài với Chúa Cha, khi cho Xatan biết Ngài đến để thi hành Thánh Ý Chúa Cha như người con hiếu thảo, như người tôi tớ trung thành, chứ không như đối thủ kiêu căng, ngạo mạn, và thụ tạo vô ơn, phản bội của Thiên Chúa như chúng. Bằng chứng là trong cả ba câu trả lời của Đức Giêsu, Ngài đều xác định và tuyên xưng : Thiên Chúa là Thiên Chúa của Ngài, và Ngài tuyệt đối tin tưởng, yêu mến, phụng thờ và tuân phục : “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi léơi từ miệng Thiên Chúa phán ra”, “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”, “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi” (Mt 4,4.7.10).   

Cũng như ông Noê đã nhận ra Thần Khí của Thiên Chúa trong trận hồng thủy tiêu diệt loài người, trừ tám người thuộc gia đình ông, qua cầu vồng là dấu  hiệu của Giao Ước Thiên Chúa thiết lập với ông : “Ta lập giao ước của Ta với các ngươi : mọi xác phàm sẽ không còn bị nước hồng thủy hủy diệt, và cũng sẽ không còn có hồng thủy để tàn phá mặt đất nữa”,“Ta gác cây cung của Ta lên mây, và đó sẽ là dấu hiệu giao ước của Ta với cõi đất… Cây cung sẽ ở trong mây. Ta sẽ nhìn nó để nhớ lại giao ước vĩnh cửu giữa Thiên Chúa với mọi sinh vật, nghiã là với mọi xác phàm trên mặt đất” (St 9,11.13.16). Cây cung Thiên Chuá gác trên mây đây chính là cầu vồng nối đất với Trời.

Với chúng ta hôm nay, giữa một  thế giới đang bị thần khí ma qủy khuynh đảo, chúng ta rất cần ơn khôn ngoan của Chúa Thánh Thần để phân định  thần khí nào là Thần Khí của Thiên Chúa, thần khí nào là thần khí của ma qủy, thế gian. Và để phân định, Đức Giêsu dậy chúng ta quy hướng và bám chặt vào Giao Ước mà mỗi người tín hữu đã ký kết với Thiên Chúa khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, giao ước mà thánh Tông Đồ trưởng Phêrô đã qủang diễn trong thư của ngài : “Lãnh nhận phép rửa, không phải là được tẩy sạch vết nhơ thể xác, mà là cam kết với Thiên Chúa sẽ giữ lương tâm trong trắng, nhờ sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô, Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi đã lên trời...” (1P3,21-22).

Một cách cụ thể, người Kitô hữu được đi vào Giao Ước vĩnh cửu với Thiên Chúa qua bí tích  rửa tội,  để trở thành chi thể của Thân Thể mầu nhiệm Đức Kitô là Giáo Hội. Chính Giáo Hội là dấu hiệu của Giao Ước giữa mỗi người Kitô hữu với Đức Giêsu Thiên Chúa, và nhờ dấu hiệu của Giao Ước là Bí Tích Giáo Hội, chúng ta không lạc lối, lầm đường khi bị thần khí ma qủy, thế gian  cám dỗ, bởi Thần Khí Thiên Chúa luôn có mặt và hoạt động trong Giáo Hội của Đức Giêsu.    

Mùa Chay là mùa Trở Về, nhưng đường về chỉ thực sự được mở ra và chúng ta chỉ có thể lên đường dưới sự hướng dẫn, thúc đẩy của Thần Khí Thiên Chúa, mà Thần Khí Thiên Chúa luôn đợi chờ chúng ta ở trong Giáo Hội là Nhà của Thiên Chúa giữa con người, là Hiền Thê yêu dấu, và Thân Thể của Đức Giêsu Kitô, Đấng chúng ta yêu mến, tôn thờ, phụng sự.

Jorathe Nắng Tím

Thứ Hai, 15 tháng 2, 2021

HÃY XÉ LÒNG

 

Thứ Tư Lễ Tro

Khởi đầu Mùa Chay, Thiên Chúa qua miệng ngôn sứ Giôen mời gọi mọi người trở về với Ngài  là “Thiên Chúa từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương”, bằng “đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng” (Ge 2,13).

Lời mời gọi này nói lên tầm quan trọng có tính quyết định của tâm hồn trên hành trình trở về với Thiên Chúa : Hành trình của trái tim, con đường của tình yêu, cuộc mạo hiểm của trông cậy, phó thác, bởi đối với con người, ra đi  hay trở về, người ta đều cần đến bàn chân, khác với đòi hỏi của Thiên Chúa : bỏ nhà ra đi, hay trở về với cha già, tất cả đều được dự tính, lên kế hoạch và thực hiện từ trong tâm hồn, tận sâu thẳm của trái tim, như người con hoang đàng trong Tin Mừng Luca “đã quyết tâm đòi cha chia của cải, rồi trẩy đi phương xa. Ở đó, anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình” (Lc 15,12-13), cho đến khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch tiền của, lại lâm cảnh túng thiếu, phải đi ở đợ. Bấy giờ anh ta mới “hồi tâm”, tự nhủ : “Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! Thôi ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người : “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha…” (Lc 15,17-18).

Thực vậy, tâm hồn là tổng hành dinh, nơi phát sinh mọi suy nghĩ  cong queo hay ngay thẳng, mọi dự tính xấu hay tốt, mọi quyết định gian ác hay thánh thiện  đưa đến hành vi phúc hay tội. Vì thế, trở về với Thiên Chúa là việc của tâm hồn, của trái tim, của nội tâm con người, chứ không là việc của áo quần, nghi lễ, tổ chức bên ngoài, nên có xé bao nhiêu áo quần, có giựt hết râu, tóc, có đổ cả thúng tro lên người, hay lăn lộn khóc lóc, đấm ngực ăn năn ngày này qua tháng nọ, mà trái tim không rung cảm, tâm hồn không rung động, tấm lòng không rung chuyển thì hành trình trở về với Thiên Chúa mãi mãi vẫn không thể thực hiện, vì hành trình này là hành trình của tâm hồn đòi bước chân của trái tim, đòi sự có mặt dấn thân của tình yêu.

Chính vì đòi xé lòng, mà hành trình trở về với Thiên Chúa không dễ. Không dễ xé, vì tấm lòng một khi đã chai đá sẽ rất khó trở nên mềm mại, dịu dàng như tấm áo ; không dễ xé, vì trái tim một khi đã hờ hững, lạnh lùng, thì khó có thể chạnh lòng thương cảm ; không dễ xé, vì tâm hồn một khi đã lãnh đạm, thờ ơ, thì khó có thể hâm nóng và làm cho tha thiết, nồng nàn.

Tấm lòng còn khó xé, vì ở trong, ở sâu, kín khuất khỏi mọi mắt nhìn, xa hẳn mọi dòm ngó, nên chỉ chủ thể mới nhìn thấy tâm hồn mình, chỉ riêng ta mới hiểu trái tim ta, chỉ duy nhất bản thân mới nghe được tiếng nói của con tim mình, nên  hỏi người khác về tâm hồn mình, thì không ai có thể trả lời đúng ; tìm giải đáp cho những vấn nạn của trái tim ở thiên hạ, thì chỉ nhận về những đáp án sai, những phán đoán mơ hồ, những nhận xét lệch lạc, vì không ai có thể thấu suốt tâm can người khác, không người nào đủ tài ba để hiểu trọn vẹn tâm sự của người chung quanh, ngoại trừ một mình Thiên Chúa, “Đấng hiện diện nơi kín đáo, và  thấu suốt những gì kín đáo” ( x. Mt 6,6).

Vì chỉ một mình Thiên Chúa thấu suốt tâm can, chỉ một mình Cha trên trời hiểu rõ con cái mình, chỉ tình yêu bao dung của Đấng Cứu Độ giàu lòng thương xót bao phủ và tẩy sạch được mọi tội lỗi, nên cũng chỉ một mình Ngài là mái ấm cho con hoang đàng trở về ; là hạnh phúc cho đời con bất hạnh ; là nguồn sống cho con sắp chết được hồi sinh, cứu sống ; là tiệc mừng cho con đói khát được vui thỏa, no nê ; là áo đẹp, nhẫn qúy cho con tiều tụy, rách rưới  được nhận lại quyền làm con, người thừa kế gia nghiệp ; là ơn cứu độ cho con đáng phải chết được sự sống  đời đời.

Vâng, Mùa Chay là mùa trở về của tâm hồn, muà tâm hồn tìm về với Thiên Chúa trong sâu lắng của tình yêu thống hối, trong thinh lặng của đôi tay chia sẻ, trong kín đáo của cầu nguyện, trong âm thầm của hãm mình, xóa mình, trong lặng lẽ khiêm nhu của tấm lòng được xé ra như tấm bánh được bẻ ra cho mọi người, bởi đó mới là điều Thiên Chúa muốn và đợi chờ ở chúng ta (x. Mt 6,4.6.18) trong Mùa Chay thánh này.

Jorathe Nắng Tím    

Thứ Tư, 10 tháng 2, 2021

“NẾU NGÀI MUỐN”

 

Nhà thờ không còn chỗ, và nhiều người phải đứng bên ngoài, vì hôm nay là ngày đầu năm, mọi người đến dâng thánh lễ Minh Niên để tạ ơn và cầu xin bình an, may lành cho năm mới.

Chắc chắn ai cũng có những điều phải xin với Chúa, phải cầu với Đức Mẹ cho năm mới, vì chẳng ai không cần Chúa, bởi có ai tự mình làm được hết mọi sự cần thiết cho mình và mình muốn đâu.

Trong thánh lễ minh niên, bên cạnh những nỗi niềm thầm kín, những tâm tình yêu mến, biết ơn dâng lên Chúa, ai nấy còn có những nhu cầu đủ loại từ nhu cầu tinh thần, thiêng liêng, đến nhu cầu thân xác, vật chất ; những nhu cầu của bản thân và nhu cầu của gia đình, làng nước, dòng tộc ; nhu cầu của giáo xứ đến nhu cầu của giáo phận, Giáo Hội toàn cầu… Rất nhiều và rất nhiều nhu cầu chúng ta muốn ; rất lớn và đôi khi qúa lớn những nhu cầu chúng ta mơ ước được Chúa ban cho trong năm mới.

Chúng ta hoàn toàn có lý khi thân thưa với Chúa những nhu cầu nhỏ to, lớn bé, xa gần của mình, vì Chúa muốn thế. Bằng chứng là Đức Giêsu đã khuyến khích chúng ta cầu xin : “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ thì cửa sẽ mở ra. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho” (Mt 7,7-8), bởi “Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó” (Mt 6,32), và Ngài còn cho chúng ta biết người cha Thiên Chúa ấy rất nhân hậu và quảng đại, khi qủa quyết : “Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn? Vậy, nếu anh em là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho những kẻ kêu xin Người sao?” (Mt 7,9-11).    

Nhưng cũng chính vì có qúa nhiều nhu cầu luôn được xem là cấp bách, khẩn trương mà  khi cầu xin, chúng ta thường quên một điều quan trọng, đó là ý muốn của Thiên Chúa. Quên bẵng ý muốn của Thiên Chúa, vì thực sự chúng ta rối trí, khi rơi vào hoàn cảnh quẫn bách, bế tắc, cùng đường ; quên khuấy Chúa mới là Đấng ban ơn, nên ít nhất cũng phải đợi ý Ngài, khi chúng ta nóng lòng muốn thực hiện gấp rút kế họach, chương trình đã được đề ra, soạn sẵn của mình ; nhất là quên hẳn Chúa là Cha nhân nhậu và quan phòng, khi chúng ta ảo tưởng về thế giá, khả năng, cũng như sự thánh thiện của mình, để tự cho mình cái quyền làm áp lực trên Thiên Chúa, dù áp lực đó chỉ là áp lực tình cảm, đạo đức.

Tin Mừng cho chúng ta làm quen với nhiều người đã cầu xin, và họ đã được toại nguyện. Hầu hết họ đều nài xin lòng thương xót Chúa khi cất chung một lời kinh : “Lậy Chúa Giêsu, xin thương xót con! ”. Nhưng bên cạnh những người này, chúng ta được Tin Mừng giới thiệu một người khác. Người  này khác lắm, vì đã không cầu xin bằng lời kinh “Xin Chúa thương xót!” quen thuộc, nhưng đã bắt đầu bằng : “Nếu Ngài muốn”. Thánh Máccô kể về người ấy như sau :

Có người phong hủi đến gặp Đức Giêsu, anh ta qùy xuống van xin rằng : “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch. Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo : Tôi muốn, anh sạch đi! Lập tức, chứng phong hủi  biến khỏi anh, và anh được sạch” (Mc 1,40-41).

Khác với nhiều người trong chúng ta, người phong hủi đã cầu xin với đức tin tinh ròng, khi bình an tín thác vào giờ của Thiên Chúa muốn, vào thời điểm Thiên Chúa quyết định, mà không yêu sách đến độ bắt ép Thiên Chúa phải thực hiện ngay điều anh xin, dù đó là điều anh hằng mơ ước và muốn, khi thưa với Đức Giêsu : “Nếu Ngài muốn”, bởi đức tin phải đặt nền tảng trên ý muốn của Thiên Chúa, như Đức Giêsu đã dậy các tông đồ cầu nguyện : “Xin cho Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” (Mt 6,10). Nói cách khác, dấu chỉ của một đức tin tinh ròng là đặt Ý Muốn của Thiên  Chúa trên hết mọi sự, và ngoan ngùy thuận theo Thánh Ý.

Khác với phần đông chúng ta, người phong đã cầu nguyện với tình yêu kiên nhẫn khi tin tưởng tuyệt đối vào lòng nhân hậu, tốt lành của người Cha Thiên Chúa, bằng thân thưa với niềm hy vọng : “Nếu Ngài muốn”.

Khác với thái độ của chúng ta, người phong hủi đã nài xin Chúa với lòng khiêm tốn thẳm sâu trước Thiên Chúa toàn năng, Đấng làm được mọi sự, và có quyền trên mọi loài, khi tuyên xưng niềm tin của mình : “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”.

Khác với chúng ta, người phong hủi đã không đặt Thiên Chúa trước điều anh muốn, nhưng khiêm hạ đặt mình trước điều Thiên Chúa muốn ; không yêu sách, ra điều kiện, mặc cả, trả giá, thương lượng : “Nếu Chúa ban cho con điều con muốn, con sẽ thực hiện điều Chúa muốn”, nhưng hoàn toàn đón nhận ý muốn của Thiên Chúa với lòng tin yêu, phó thác. Anh đã không như chúng ta đảo ngược, đánh tráo hai ý muốn : ý muốn của Thiên Chúa và ý muốn của con người. 

Khác với chúng ta, người phong hủi đã không lập trình sẵn ý muốn của mình và yêu cầu Chúa chứng nhận, thực hiện, như kiểu đặt người khác trước chuyện đã rồi, nhưng ngay từ đầu đã nhận mình là người dơ bẩn, ô uế, nên đã cậy dựa vào lòng nhân hậu toàn năng của Thiên Chúa, khi qủa quyết : “Ngài có thể làm cho tôi được sạch”.

Khác với chúng ta, cung cách của người phong hủi khi chạy lại và qùy xuống, cũng như lời anh nài xin : “Nếu Ngài muốn”… đã không cứng cỏi, phảng phất kiêu căng, nhưng rất dễ thương, và Đức Giêsu đã ân cần đáp trả “những dễ thương” của anh bằng “chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh”.

Khác với chúng ta, người phong hủi đã hy vọng với một đức tin đằm thắm, không ồn ào ; đã kiên nhẫn đợi chờ giờ của Thiên Chúa với niềm tin sâu lắng, bền bỉ, khi kính cẩn, dõng dạc tuyên xưng đức tin : “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”.

Qủa thực, vì thấy người phong hủi tin tưởng, yêu mến, khiêm tốn, kiên trì,  Đức Giêsu đã đáp lại lời cầu xin của anh : “Nếu Ngài muốn” bằng “Tôi muốn”, và “Ngài có thể làm cho tôi được sạch” bằng “Anh sạch đi!”.

Tết năm nay, giữa giông bão Covid đang kéo về trên đất nước, sau nhiều tháng tương đối lắng đọng, tất cả chúng ta đều muốn một điều là đại dịch Covid-19 bị đẩy lui, tiêu diệt, vì đã hơn một năm, toàn thế giới phải điêu đứng, điên đảo, kinh hãi vì mãnh lực tàn phá khủng khiếp của nó. Hơn hai triệu người chết, trong số đó có nhiều giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, và người thân yêu của chúng ta, chưa kể rất nhiều thiệt hại trên mọi bình diện tinh thần cũng như vật chất, kinh tế chính trị cũng như y tế, giáo dục, cá nhân cũng như cộng đồng, quốc gia cũng như quốc tế… Ước muốn của chúng ta chính đáng, vì bảo vệ sự sống là giá trị cao cả, là quà tặng qúy báu của Thiên Chúa ban cho nhân loại. Lời cầu xin của chúng ta đẹp lòng Chúa, vì những gì  mưu ích cho con người đều đẹp lòng Chúa.

    Vì thế, cùng với Hội Thánh, chúng ta cầu xin Chúa trong thánh lễ đầu năm ơn bình an cho mọi người trong năm mới. Xin Chúa xua đuổi Covid ra khỏi đời sống của mọi người, dẹp tan đại dịch khỏi đất người đang sống. Và để đáng được Chúa thương và Chúa muốn, không gì tốt hơn, cần thiết hơn, và đẹp lòng Chúa hơn là bắt chước tâm tình và thái độ của người phong hủi năm xưa trong Tin Mừng, bằng chạy đến với Đức Giêsu và qùy xuống van xin Người : “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho chúng con được chữa lành ; nếu Ngài muốn, Ngài có thể gìn giữ chúng con khỏi nhiễm bệnh ; nếu Ngài muốn, Ngài có thể cứu quê hương chúng con và toàn thế giới khỏi mọi hiểm nguy, đe dọa của đại dịch ; nếu Ngài muốn, Ngài có thể đổi mới chúng con và toàn thể địa cầu như ý muốn của Ngài, lậy Thiên Chúa toàn năng nhân hậu của chúng con!”.  

Jorathe Nắng Tím    

Thứ Hai, 8 tháng 2, 2021

NGÀI ĐÃ CHẠM ĐẾN VÀ CHỮA LÀNH

 

Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 6 Thường Niên, năm B

Tin Mừng Máccô kể lại : “Có người bị phong hủi đến gặp Người, anh ta qùy xuống van xin rằng : Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo : “Tôi muốn, anh sạch đi! Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch” (Mc 1,40-42).

Trong Israel, người phong hủi không chỉ là người chịu nhiều đau đớn trên thân xác vì chứng bệnh nan y bị coi là ô uế, nguy hiểm nhất vào thời đó, mà còn chịu vô vàn đau khổ tinh thần do bị xã hội tẩy chay, xa lánh, cô lập vì sợ lây nhiễm, nhất là bị xếp vào hạng người tội lỗi đáng nguyền rủa, bởi chỉ người có tội nặng nề mới bị Thiên Chúa phạt phải mắc chứng bệnh phong hủi ghê tởm, gớm ghiếc này.

Sách Lêvi ghi rõ : “Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên : ‘Ô uế! Ô uế!’. Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế ; nó ô uế : nó phải ở riêng ra, chỗ của nó ở là một nơi bên ngoài trại” (Lv 13,45-46).

Sở dĩ, người mắc bệnh phong hủi phải luôn miệng kêu lên “Ô uế! ” khi có người, vì họ phải tự tránh xa mọi người, phải tự cách giãn và không được để ai đến gần, hay đụng chạm vào mình, bởi họ là người ô uế, và là nguyên nhân gây bệnh cho người khác. Dưới mắt cộng đồng, họ còn là người có tội : tội làm ô uế xã hội, tội đem bệnh cho người khác, nên phải cách ly gia đình, xa hẳn làng xóm, và chẳng mấy người quan tâm lo lắng cho họ, càng không để họ đến gần làm thân.

Thế mà hôm nay, khi thấy Đức Giêsu, người phong hủi đã liều lĩnh chạy đến gặp Ngài, và qùy xuống van xin : “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. Tin vào lòng tốt của Đức Giêsu mà chắc chắn anh đã nghe nhiều về những phép lạ Ngài làm để chữa những người đau bệnh, tật nguyền, cả những người bị phong hủi như anh, nên  anh đã không sợ bị Đức Giêsu bạc đãi, xua đuổi, từ chối, tránh xa, như mọi người vẫn tàn tệ đối xử với anh. Tin vào lòng tốt của Đức Giêsu, anh đã quên mình là người không được phép đến gần người khác, cũng không được để người khác đến gần mình, khi phải luôn miệng hô to : “Ô uế! Ô uế”, như kèn báo động, như còi báo nguy để người chung quanh cảnh giác, đề phòng, tránh xa, nhưng anh đã bất chấp lệnh cách ly, vượt rào ngăn cách chạy đến qùy trước mặt Đức Giêsu và van xin Ngài chữa lành.

Nếu người phong hủi đã tin vào lòng tốt của Đức Giêsu mà liều mạng đến gần Ngài, thì Đức Giêsu cũng bầy tỏ lòng tốt của Ngài khi “chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh, và bảo : Tôi muốn, anh sạch đi!”.

 Thực vậy, không ai trong đám đông có mặt hôm ấy đã nghĩ người phong hủi ô uế, bị cấm gặp gỡ mọi người đã dám chạy lại gần Đức Giêsu, và còn hơn thế nữa, chính Đức Giêsu đã bất chấp luật cấm giao lưu với người phong hủi không những đã để người ấy đến gần mình và van xin, mà còn công khai “đụng chạm” vào con người ô uế, tội lỗi ấy, với trái tim chạnh lòng thương xót, đồng thời chữa lành và ân cần căn dặn anh : “Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Môsê đã truyền (x. Lv 14,1-32), để làm chứng cho người ta biết” (Mc 1,44).

Qủa là điều chưa bao giờ thấy trong Ítraen khi người ô uế đến gần người thanh sach, và người thanh sạch đụng chạm vào người ô uế như cuộc gặp gỡ vừa xẩy ra giữa Đức Giêsu, Ngôi Lời Thiên Chúa và người phong hủi, bởi giữa hai bên là vực thẳm Lề Luật không thể vượt qua.

Đây chính là công trình cứu chuộc nhân loại của Thiên Chúa, là mạc khải về tình yêu, lòng tốt của Thiên Chúa, là cuộc cách mạng của Tin Mừng, khi “Thiên Chúa làm người” ở giữa con người, để con người tội ỗi, ô uế được đến gần Thiên Chúa ; khi Thiên Chúa toàn năng và nhân hậu ở với con người, để con người yếu đuối được đỡ nâng, con người gục ngã được vực dậy, con người bệnh tật được chữa lành, con người dơ bẩn được tẩy sạch, “kẻ lỗi lầm được tha thứ, người có tội được khoan dung” (Tv 31,1).

Những ngày này, tình thế lại căng thẳng, dân tình lại hoang mang vì phát hiện nhiều ca lây nhiễm Covid-19 biến thể. Thực vậy, hơn bao giờ hết, chúng ta sống trong bầu khí bị đại dịch đe dọa trầm trọng, và cũng hơn bao giờ hết, Thiên Chúa mời gọi chúng ta biểu lộ lòng tốt với mọi người, nhất là với những người bị lây nhiễm, hay những người lâm cảnh khó khăn vì đại dịch, bằng “chạnh lòng thương đến gần để lắng nghe, chia sẻ, cảm thông, tìm cách giúp đỡ, chữa lành, như Đức Giêsu đã biểu lộ lòng tốt của Thiên Chúa đối với người phong hủi  bằng “chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh” và chữa anh được sạch. Chính lòng tốt của Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ giầu lòng thương xót đã chữa lành và thanh tẩy anh nên trong sạch không chỉ trên thân xác, trong tâm hồn, mà cả với xã hội và với Thiên Chúa.

   Xin Chúa cho chúng con khám phá lòng tốt của Thiên Chúa đối với mỗi người và biểu lộ lòng tốt với nhau mọi nơi, mọi lúc bằng sống bác ái, như Chúa dậy.       

   Jorathe Nắng Tím 

Thứ Năm, 4 tháng 2, 2021

THÁNH GIUSE, NGƯỜI CHA YÊU THƯƠNG

 

Không ai có thể phủ nhận thánh Giuse là người cha rất yêu thương, và suốt đời đã dồn hết tình yêu, cùng với Đức Mẹ để nuôi dưỡng, chăm nom, giáo dục Đức Giêsu, người con mà Thiên Chúa đã ký thác cho ngài gìn giữ, bảo vệ, người con mà mọi người đều trầm trồ khen ngợi như Tin Mừng Luca đã ghi lại : “Còn Đức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghiã đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2,52).

Nhưng thánh Giuse đã sống tình yêu của người cha như thế nào ?

1.   Ngài đã sống hiền lành :

Là người công chính, nghiã là người thuộc về và sống theo đường lối  Thiên Chúa, nên thánh Giuse luôn nằm lòng : hiền lành là nhân đức cần thiết của người công chính, là điều kiện để trở thành tôi tớ trung tín, bởi “Thiên Chúa hạ bệ những ai quyền thế, và đặt kẻ hiền lành ngồi lên thay” (Hc 10,14). Hiền lành cũng là điều kiện để được Thiên Chúa thánh hoá như Thiên Chúa đã  chọn và thánh hoá Môsê, “vì ông thành tín,  hiền lành” (Hc 45,4).

Tin Mừng cho chúng ta hình ảnh một người cha hiền lành của gia đình thánh ở Nadarét, một người cha không bao giờ to tiếng, nặng lời với con, nhưng hiền hậu, nhân lành. Vì hiền lành, người cha ấy kiên nhẫn dậy dỗ, chỉ bảo con, mà không  vội nóng, vội giận, như thái độ hiền lành, điềm tĩnh, chịu đựng của thánh Giuse khi tìm được Đức Giêsu sau ba ngày lạc mất ở Giêrusalem. Ngay cả trước câu trả lời không mấy “dễ nghe” của Đức Giêsu đang khi cha mẹ Ngài mừng mừng tủi tủi vì tìm được con, thánh Giuse vẫn không tỏ ra bất cứ một thái độ khó chịu, bực bội, cáu gắt nào, nhưng thinh lặng, và như Đức Mẹ “giữ những sự ấy trong lòng”, vì cả hai ông bà đã không hiểu lời Đức Giêsu vừa nói : “Sao cha mẹ  lại tìm con? Cha mẹ  không biết là con có bổn phận ở  nhà  của Cha con sao?” Lc 2,49).

Thật khác với phần đông người cha khi con cái chỉ sơ ý một chút là đùng đùng nổi giận la hét, chửi mắng ; khi con cái quấy rầy đã không đủ hiền lành để kiên nhẫn chịu đựng và dậy bảo, nhưng lấy quyền gia trưởng trấn áp, đe loi, dùng quyền làm cha nghiêm khắc trừng phạt đến độ làm con cái kinh hãi, hoảng loạn, mất hết tự tin. Vì thế có đứa con đã phải bỏ nhà ra đi, vì cha qúa hung dữ, thô bạo ; đứa khác bị xua đuổi, từ bỏ vì làm trái ý cha, và nhiều gia đình chưa bao giờ có được một ngày  bình an, vì những người cha hung dữ chưa một lần điềm đạm, đằm thắm lắng nghe con cái thỏ thẻ, tâm sự, chưa bao giờ dịu dàng, hiền hậu, âu yếm chơi đùa với con, cũng chẳng khi nào ân cần quan tâm đến những nhu cầu bé nhỏ, đơn sơ của con cái.      

Thực vậy, trong một thế giới ngày càng bạo lực, thì hiện tượng bạo hành trong gia đình càng trở thành “quen thuộc, bình thường” đến độ không ai còn muốn quan tâm can thiệp. Do đó, xã hội đã điên đảo vì bạo lực, nay càng bị bạo lực làm điên đảo hơn, vì ở ngay trong tổ ấm yêu thương là gia đình, người cha đã không hiền lành để yêu thương, nhưng đối xử với con và hành xử trong mọi tình huống, hoàn cảnh như bạo chúa hung dữ, độc ác, độc tài.

2.    Ngài đã sống hy sinh :

Tình yêu đích thực là tình yêu có hy sinh đồng hành. Đây là chân lý ngàn đời không thể thay đổi, bởi người ta không thể yêu một người mà từ chối hy sinh cho người ấy. Vì thế, bất cứ tình yêu nào cũng đòi hy sinh, bất kể trái tim yêu thương nào cũng đã phải thao thức, băn khoăn, khắc khoải, đau đớn, xót xa vì mong ước và nỗ lực hành động để mưu tìm hạnh phúc cho người mình yêu, như người cha yêu con sẽ vui lòng đón nhận hy sinh đi sớm về khuya làm lụng vất vả để con cái được ấm no, ăn học, không phải thua chị kém em ; người mẹ thương con không nề hà lao nhọc, tần tảo buôn bán để con có của ăn hằng ngày, không phải thiếu ăn thiếu mặc.  

Như thế hy sinh cho ai là yêu họ ; chịu thiệt thòi, mất mát vì ai là thương họ, và mức độ tình yêu tỷ lệ thuận với mức độ hy sinh, nên càng yêu nhiều, càng hy sinh nhiều ; càng sẵn sàng hiến thân hy sinh, càng yêu tha thiết, nồng nàn ; càng sẵn sàng bỏ mình hy sinh, tình yêu càng lớn lao, mãnh liệt, như Đức Giêsu đã khẳng định trong Tin Mừng Gioan : “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13), bởi với mọi người, tính mạng là giá trị cao qúy, lớn lao hơn cả.

Thánh Giuse là người cha hy sinh ở bất cứ nơi nào và lúc nào cho gia đình, vì ngài được sinh ra để yêu thương. Ngài đã hy sinh không tính toán, so đo, vì lẽ sống của đời ngài là yêu thương như Thiên Chúa yêu thương ; hy sinh không mệt mỏi, nhưng hết tình và hết mình, vì hành trình cuộc đời ngài là yêu thương đến cùng.      

Học với ngài tinh thần hy sinh cũng là noi gương yêu thương của ngài, vì tình yêu đích thực không thể thiếu dấu ấn của hy sinh ; sự sống của tình yêu không thể thiếu hy sinh như khí thở, lương thực. Đó chính là lý do nhiều cuộc tình đổ vỡ, vì lầm tưởng tình yêu không cần  hy sinh ; nhiều gia đình tan nát, vì hy sinh không gắn bó, chung vai sát cánh với tình yêu ; nhiều ước mơ hạnh phúc tan thành mây khói, vì hy sinh không có chỗ trong mái ấm tình yêu.

Là người cha trong gia đình công giáo, như thánh Giuse, chúng ta hãy sống  hy sinh cho mọi người trong gia đình, “hãy sống trong tình bác ái, như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, đã tự nộp mình làm của lễ hy sinh, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt” (Ep 5,2).     

3.   Ngài đã luôn hiện diện :

Tình yêu đòi hiện hiện, nên yêu ai, ta muốn ở bên, sát cạnh người ấy ; thương ai, ta không muốn xa họ dù một giây. Vì thế, khi yêu nhau cuồng nhiệt, say đắm, thì hình phạt khủng khiếp nhất đối với hai người yêu nhau là bắt họ phải xa nhau, không cho họ được gần nhau, ở với nhau, và định luật “xa mặt cách lòng” là định luật khó thay đổi của tình yêu.

Bởi người ta sẽ quên nhau nếu phải xa nhau ; người ta sẽ bớt dần yêu nhau, nếu không có mặt, hiện diện bên nhau; người ta sẽ không muốn ở với nhau, nếu tình của họ dành cho nhau không còn tha thiết, mặn nồng; người ta sẽ ngao ngán lánh mặt nhau, nếu tình yêu xa bay, cạn kiệt, chết yểu.

Nhưng tình yêu của thánh Giuse dành cho Thiên Chúa không bao giờ sút giảm, trái lại mỗi lúc mỗi tăng, mỗi ngày mỗi lớn ; tình của ngài yêu Đức Giêsu mỗi ngày một cao vời, bền vững, và  tình ngài dành cho Đức Mẹ chẳng bao giờ nhạt phai, đổi dời, nên ngài không rời xa gia đình thánh một ngày, không vắng bóng Đức Giêsu một giây, trừ ba ngày lạc mất con ở Giêrusalem khi Đức Giêsu lên mười hai tuổi trong dịp trẩy lễ đã tự ý ở lại trong Đền Thờ.

Học yêu thương từ Thiên Chúa trong Kinh Thánh, Đấng luôn hiện diện để “tỏa ánh tôn nhan” trên những người Chúa thương (x. Tv 4,7) ; Đấng luôn có mặt và đích thân đi với người Ngài chọn, như Ngài đã phán với Môsê : “Ta sẽ ở với ngươi”, “Đích thân Ta sẽ đi, và Ta sẽ cho ngươi được nghỉ ngơi” (Xh 3,12 ; 33,14).

Thánh Giuse cũng học với các tổ phụ, tiền nhân trong dân Chúa như Ápraham, là người yêu mến Thiên Chúa và luôn ở gần Ngài (x. St 18,22), hay như vua Đavít, người luôn bước đi trước nhan Chúa vì yêu mến Ngài (x. 1R 3,6), và suốt đời, thánh Giuse đã phục vụ Thánh Gia, chăm lo Đức Giêsu bằng sự hiện diện đầy ắp yêu thương.

 

Qủa thực, “có mặt, hiện diện” là qùa tặng tình yêu lớn nhất mà tình nhân dành cho nhau, bởi bất cứ quà tặng nào, dù đắt giá đến đâu cũng không thay thế được sự hiện diện bằng xuơng bằng thịt của người mình yêu, cũng không đem lại hạnh phúc tròn đầy, viên mãn bằng người yêu có mặt bên mình. Chẳng thế mà khi yêu nhau, người ta chỉ cần có nhau, được ở gần nhau, được sống bên nhau, dù hoàn cảnh có khó khăn, éo le, dù điều kiện có thiếu thốn, eo hẹp. 

Đây cũng là lý do nhiều con cái đã  bất hạnh, khi người cha vì lý do nào đó đã không hiện diện trong gia đình, không có mặt trong sinh hoạt của con cái, không cùng chung sống với vợ con. Bất hạnh không chỉ trước mắt vì vắng cha, xa cha, thiếu cha, nhưng còn ảnh hưởng xấu trên mức độ trưởng thành tâm lý sau này của đứa trẻ.

Tóm lại, thánh Giuse đã yêu thương Đức Giêsu bằng Hiền Lành, Hy Sinh, Hiện Diện. Hiền lành như bàn tay cha hiền nâng niu, uốn nắn con trẻ thơ dại, Hy Sinh  như dưỡng khí, lương thực nuôi con lớn, và Hiện Diện như bóng mây ban ngày, như cột lửa ban đêm dõi bước con đi.

Xin thánh Giuse bầu cử cho chúng con trước mặt Chúa để chúng con được ơn đổi mới con tim, biến trái tim chai đá vì hung dữ, cứng cỏi vì kiêu căng, héo úa vì ích kỷ thành trái tim Hiền Lành, Hy Sinh, Hiện Diện của người cha yêu thương, như trái tim của ngài.

Jorathe Nắng Tím  

Thứ Hai, 1 tháng 2, 2021

ĐỨC TIN VÀ CHỮA LÀNH

 

Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật 5 Thường Niên, Năm B

Kinh Thánh Cựu Ước có chuyện ông Gióp ở đất Út. Ông là một con người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác (G 1,1). Vì được Thiên Chúa coi là người đầy tớ trung thành, luôn kiên vững trong đường lối vẹn toàn (G 2,3), dù rơi vào bất cứ hoàn cảnh nào, nên Xatan ganh ghét Gióp và thưa với Thiên Chúa : Tất cả những gì người ta có, người ta đều sẵn sàng cho đi để cứu mạng sống mình. Ngài cứ thử giơ tay đánh vào xương vào thịt nó xem, chắc chắn là nó sẽ nguyền rủa Ngài thẳng mặt! (G 2,5), và Xatan xin Chúa cho phép thử thách Gióp. Thiên Chúa đồng ý, cho phép Xatan được thử thách Gióp, người tôi tớ trung kiên của Ngài, khi nói với Xatan : Được, nó thuộc quyền ngươi, nhưng ngươi phải tôn trọng mạng sống nó (G 2,6).

Gióp là hình ảnh sống động của con người bất hạnh, bởi từ có tất cả phút chốc mất hết, không còn gì ; từ phương phi vạm vỡ biến thành yếu nhược, tiều tụy, xấu xa ; từ danh giá, được trọng vọng trở thành kẻ bị mọi người khinh dể, nhạo cười, xa lánh ; từ dư dả, giầu sang, bạn bè tấp nập ra vào, kẻ hầu người hạ ngày đêm vồn vã bỗng nhiên thành kẻ thiếu ăn, thiếu mặc, cô đơn, sầu tủi, bị xỉ nhục, mắng nhiếc nặng lời.

Hình ảnh ông ngồi giữa đống tro, lấy mảnh sành mà gãi, vì Xatan hành hạ khiến ông mắc phải chứng ung nhọt ác tính từ bàn chân cho tới đỉnh đầu (G 2,7-8) thật rất đáng thương, nhưng cũng đáng sợ, đáng ngán : sợ mắc chứng bệnh quái ác như ông, ngán cảnh đau đớn, nhơ nhớp cùng mình. Chẳng thế mà vợ ông đã bảo ông : Đừng kiên vững trong đường lối vẹn toàn của ông nữa, nhưng hãy nguyền rủa Thiên Chúa và chết đi cho rồi! (G 2,9).

Qủa thực, cơn thử thách của Gióp rất khủng khiếp, nặng nề, đến nỗi ông đã phải đau đớn thốt lên : Phải chi đừng xuất hiện ngày tôi đã chào đời (G 3,3), vì cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao ? Và chuỗi ngày lao lung vất vả, đâu khác gì đời kẻ làm thuê? Tựa người nô lệ mong bóng mát, như kẻ làm thuê đợi tiền công, cũng thế, gia tài của tôi là những tháng vô vọng, số phận của tôi là những đêm đau khổ ê chề. Vừa nằm xuống, tôi đã nhủ thầm : Khi nào trời sáng ? Mới thức dậy, tôi liền tự hỏi : Bao giờ chiều buông?... Lậy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ (G 7,1-4.7).

Thực vậy, ông Gióp là người đã chịu mọi thử thách của ma qủy nên thấm thía những đau đớn trên thân xác và đau khổ trong tâm hồn. Ông cho chúng ta thấy mãnh lực áp đảo của sự dữ, bất hạnh trên đức tin và lòng trung thành của chúng ta đối với Thiên Chúa, bởi trước đau khổ, không phải ai cũng trung tín, và hy vọng để nói được như ông Gióp : Chúng ta đón nhận điều lành từ Thiên Chúa, còn điều dữ, lại không biết đón nhận sao? (G 2,10).

Câu chuyện của Gióp đã làm tiền đề cho Tin Mừng hôm nay kể về những phép lạ Đức Giêsu đã làm để chữa mọi kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và bị qủy ám đến với Ngài (x. Mc 1,34).

Nhưng tiếp liền theo trình thuật chữa bệnh, trừ qủy, thánh sử Máccô kể lại: Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. Ông Simôn vá các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Người, các ông thưa : Mọi người đang tìm Thầy đấy!. Người bảo các ông : Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm điều đó. Rồi Người đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường của họ và trừ qùy (Mc 1,35-39).

Theo ngữ cảnh, thì Mọi người đang tìm Thầy ! được hiểu là nhiều người đau bệnh, tật nguyền, bị qủy ám đang chờ được gặp Đức Giêsu để xin Ngài chữa lành. Nhưng thay vì ra gặp họ để tiếp tục chữa bệnh, trừ qủy theo lời mời của các tông đồ, Đức Giêsu đã trả lời : Chúng ta hãy đi nơi khác… Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.

Điều này cho chúng ta thấy sứ vụ của Đức Giêsu là rao giảng Tin Mừng, loan báo Nước Thiên Chúa đang có mặt, ở giữa mọi người để tất cả nhận được ơn thương xót của Thiên Chúa hầu được sự sống đời đời. Còn những phép lạ chữa lành mọi thứ bệnh tật và trừ qủy Ngài làm chỉ có mục đích cho mọi người biết và tin Ngài là Thiên Chúa, Đấng có quyền trên mọi sự, mọi loài, mọi quyền lực. Nói cách khác, niềm tin vào Ngài là Thiên Chúa mới là điều quan trọng, bởi đức tin mới đem lại ơn cứu rỗi cho chúng ta, trong khi những phép lạ chỉ có mục đích củng cố niềm tin còn yếu kém của chúng ta, như Đức Giêsu đã làm phép lạ cho nước hoá thành ruợu ngon ở tiệc cưới Cana cốt để các môn đệ tin vào Ngài (x. Ga 2,11).

Vì thế, nếu chúng ta chỉ đi đạo để được phép lạ, chỉ yêu mến, phụng thờ Chúa, nếu được Chúa cho khỏi bệnh, buôn may bán đắt, hoạn lộ thênh thang, công danh lên vùn vụt thì đức tin của chúng ta không thể đứng vững khi gặp thử thách, đối mặt với nguy nan, đau khổ, bởi nếu chỉ đòi thấy những dấu lạ mới tin, chúng ta sẽ bị Chúa khiển trách như những người Do Thái yêu cầu Đức Giêsu làm phép lạ năm xưa : Thế hệ này là một thế hệ gian ác, chúng xin dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giôna. Qủa thật, ông Giôna đã là một dấu lạ cho dân thành Ninivê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là một dấu lạ cho thế hệ này như vậy (Lc 11,29-30). Ý Đức Giêsu muốn nói về sự phục sinh của Ngài.

Tóm lại, bệnh tật, đau khổ không chỉ là dấu ấn của thụ tạo có giới hạn, mà còn là hậu qủa của tội lỗi nơi con người. Cũng chính vì thương xót con người, mà Đức Giêsu đã xuống thế làm người để chia sẻ thân phận người và cứu độ con người bằng sự sống, sự chết và phục sinh của Ngài để chuộc lại quyền làm con Thiên Chúa của con người, hầu con người được hạnh phúc đời đời trong sự sống của Thiên Chúa. Và đức tin của mỗi người là điều kiện để Lời Hứa cứu độ được thực hiện, đức tin mà Đức Giêsu phục sinh đã dậy cho môn đệ Tôma : Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin! (Ga 20,29), vì ông không tin Thầy đã sống lại, mặc dù tất cả anh em môn đệ đều đồng thanh khẳng định : Chúng tôi đã được thấy Chúa! (Ga 20,25), cho đến khi chính Đức Giêsu phục sinh hiện ra và bảo ông : Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin (Ga 20,27).

Và như các thánh Tông Đồ năm xưa, chúng ta khiêm tốn và tín thác thưa với Đức Giêsu : Lậy Thầy, xin thêm đức tin cho chúng con (Lc 17,5). 

Jorathe Nắng Tím