Tìm kiếm Blog này

Thứ Sáu, 22 tháng 5, 2020

NGƯỜI TRẺ VÀ ĐỨC TIN (11)

LÊN ĐƯỜNG
Khi Thiên Chúa Giavê trong Cựu Ước gọi ai, Ngài đều muốn người ấy Lên Đường (x. St 12,1 ; Xh 3,10); Đức Giêsu trong Tin Mừng cũng gọi các môn đệ “Hãy đi theo Tôi” (Mc 1,17).
Lên đường là đi, nên đức tin của chúng ta không là đức tin bất động, đức tin ù lì, ươn lười, biếng nhác, đức tin chỉ thích ngồi chơi uống trà, “nằm chờ sung rụng”, “cơm bưng nước rót”, nhưng là đức tin xông xáo lên đường, đức tin dấn thân mạo hiểm, đức tin nhập cuộc quên mình, đức tin hăng hái hoạt động, đức tin lớn lên từng ngày nhờ hành động.
Vì thế, không có đức tin thụ động với chỉ hai lần trong đời được người khác đưa đến nhà thờ: một lần rửa tội khi còn bé được mẹ ẵm, và một lần an táng khi nằm yên bất động trong quan tài; không có đức tin hờ hững, lạnh lùng: đút tay túi quần nhìn người khác sống đạo, truyền giáo; không có đức tin vô cảm, vô trách nhiệm: không quan tâm đến việc chung của giáo xứ, giáo họ, nhưng hùng hổ phê bình,  to tiếng chỉ trích, lên án; không có đức tin vụ lợi, tính toán, so đo, kiểu “giữ đạo vừa đủ để lên thiên đàng”; không có đức tin ích kỷ, ki bo chỉ lo cho phần rỗi của riêng mình, mà bất cần cộng đoàn, người chung quanh; không có đức tin “chỉ trông cậy vào lòng thương xót Chúa” nhưng mình lại chẳng thương xót ai; không có đức tin thích đấm ngực người khác “lỗi tại anh, lỗi tại chị” hơn đấm ngực mình “lỗi tại tôi” và lên đường trở về; không có đức tin khéo viện đủ lý do, quy chiếu mọi lề luật, trích dẫn mọi hướng dẫn, quy tắc để thân khỏi “liên lụy”, tay khỏi nhúng chàm, chỗ ngồi chỗ đứng không bị lung lay, vì công lý và bác ái; không có đức tin đồng loã, a dua, “ai sao tôi vậy”, mà không bao giờ dám nói thật, làm chứng cho sự thật để giải cứu người bị áp bức oan sai; không có đức tin hời hợt, cạnh tranh không lương thiện, say mê tổ chức sự kiện hoành tráng để biểu dương uy lực, và kiêu căng thách thức; nhất là không có đức tin “ghen tương, ganh ghét, gian tham, bạo lực”…
Nếu đức tin rơi vào một trong những tình trạng trên, thì chúng ta biết đức tin của mình đang bị thương, hoặc què, hoặc bại liệt, bởi đức tin không còn “đôi chân” để lên đường, như Ápraham đã vâng lệnh Thiên Chúa Giavê: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất ta sẽ chỉ cho ngươi” (St 12,1), như Môsê vâng lời Thiên Chúa: “Bây giờ ngươi hãy đi! Ta sai ngươi đến với Pharaô để đưa dân ta là con cái Ítraen ra khỏi Ai cập” (Xh 3,9), như các tông đồ đã vâng lời Đức Giêsu: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người” (Mt 4,19), như tất cả các môn đệ thực hiện bài sai của Đức Giêsu: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy” (Mt 28,19).
Thực vậy, đức tin đòi lên đường, đòi hoạt động, vì không có đức tin ngủ say, ngủ vùi. Nhưng hoạt động thế nào, và hoạt động cho ai, vì ai?
Thưa hoạt động với Đức Giêsu cho người khác, vì người khác, bởi đức tin là tương quan giữa mỗi người với Đức Giêsu luôn quy hướng về người khác, và đức tin ấy chỉ thực sự sống, chỉ thực sự là đức tin sống động khi yêu thương tha nhân bằng hành động, như thánh tông đồ Giacôbê đã qủa quyết: “Đức Tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,17), bởi nếu tự phụ mình có đức tin mà không có hành động của đức ái, thì chẳng khác gì “có người anh em hay chị mê không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: “Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?” (Gc 2,15-16).
Chúng ta cần xác tín điều căn bản trên, đó là đức tin luôn đòi được sống bằng hành động của đức ái, như Đức Giêsu đã khẳng định: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em hãy giữ  giới răn của Thầy” (Ga 14,15). Khẳng định này đồng nghiã với: Ai tin Thầy, thì hãy giữ giới răn của Thầy, và giới răn ấy là Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em (Ga 15,12). Vì thế, đức tin không thể tách rời đức ái, bởi không có đức ái là sự sống, đức tin sẽ là đức tin chết, không ích lợi cho ai.
Như thế, người trẻ phải lên đường với hành trang là con tim yêu thương, và đôi bàn tay trao ban, phục vụ, như Đức Giêsu đã đến trong thế gian để yêu thương và phục vụ: “Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá cứu chuộc mạng sống mọi người” (Mt 20,28).
1.   Người trẻ lên đường yêu thương - phục vụ bất cứ  nơi nào có con người:
Bài sai của Đức Giêsu cho các môn đệ là đến với muôn dân, nghiã là không có cấm địa, không có vùng cấm vào, không có nơi cấm đến, nhưng mọi ngõ ngách, mọi hang cùng ngõ hẻm đều là địa sở của người môn đệ Đức Giêsu.
Người trẻ là môn đệ Đức Giêsu, nên ở đâu có con người, ở đó có sứ mệnh phục vụ của người trẻ; chỗ nào có con người, chỗ đó có nhu cầu phục vụ và người trẻ được Đức Giêsu sai đến để làm chứng Ngài là Thiên Chúa yêu thương bằng hành động yêu thương, phục vụ họ.
Đây là sứ vụ của người trẻ tin vào Đức Giêsu, tin vào ơn gọi Kitô hữu của mình, bởi với đức tin, người trẻ nhập cuộc yêu thương, phục vụ tha nhân với Đức Giêsu, nhân danh Đức Giêsu.
Sở dĩ chúng ta luôn gắn Yêu Thương với Phục Vụ, bởi phục vụ không vì yêu thương, phục vụ sẽ biến thành một kiểu hình phạt, một gánh nặng bất đắc dĩ phải mang, cũng như yêu thương không phục vụ, yêu thương chẳng có ý nghiã, giá trị gì, vì chỉ là “yêu thương mình”, yêu thương đãi bôi, môi miệng.
Với sứ vụ yêu thương, phục vụ con người ở bất cứ nơi nào, trong hoàn cảnh nào: những con người thân yêu trong gia đình, những con người quen biết ở lối xóm, những con người đồng song ở trường học, những con người cùng chia sẻ công việc ở văn phòng, nhà máy, những con người thân thương ở xa, những con người cần đến sự giúp đỡ trên đường phố, những con người nghèo đói, thất học nơi buôn làng heo hút, cả những con người đang gây phiền phức, phá hoại…, chúng ta không thiếu cơ hội để làm chứng đức tin, không thiếu nguồn sống để nuôi dưỡng đức tin, không sợ đức tin thất nghiệp, và không để đức tin phải chết như lời cảnh báo của thánh Giacôbê: “Hỡi người đầu óc rỗng tuếch, bạn có muốn biết rằng đức tin không có hành động là vô dụng không? Ông Ápraham, tổ phụ chúng ta, đã chẳng được nên công chính nhờ hành động, khi ông hiến dâng con mình là Ixaác trên bàn thờ đó sao? Rakháp, cô gái điếm cũng vật: há chẳng phải nhờ hành động mà đã được nên công chính, vì đã đón tiếp các sứ giả và đã đưa họ đi lối khác sao? Thật thế, một thân xác không hơi thở là một xác chết, cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,20-21. 25-26).
2.   Cộng tác với Thiên Chúa trong công trình cứu chuộc:
Nguời trẻ không lên đường một mình, nhưng luôn có Thiên Chúa cùng đi, vì được Ngài sai đi, như khi Môsê lo lắng trước sứ vụ giải phóng dân, đã thưa với Thiên Chúa: “Con là ai mà dám đến với Pharaô và đưa con cái Ítraen ra khỏi Ai Cập?”, và lập tức Thiên Chúa đã phán với ông: Ta sẽ ở với ngươi (Xh 3,11-12), cũng như Đức Giêsu đã hứa với các môn đệ của Ngài: Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế (Mt 28,20). Vì thế, người môn đệ không sợ gian khó, nguy hiểm, kể cả bị vu khống, bách hại vì: “Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì: thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em” (Mt 10,19-20).
Có Thiên Chúa trên đường loan báo ơn Cứu Độ cho muôn dân, làm chứng Tin Mừng: Thiên Chúa yêu thương họ, bằng yêu thương, phục vụ, người trẻ thực sự  được Thiên Chúa tha thiết mời gọi cộng tác với Ngài. Nhưng để cộng tác không trở thành phá hoại, cộng tác mà không làm hỏng công trình của ông chủ, cộng tác mà không gây khó khăn, phiền phức cho công việc chung, cộng tác mà không biến thành cạnh tranh bất chính, người trẻ cần thực hiện công trình đào tạo:
a.   Tự đào tạo mình:
Vì phải làm chứng, nên người chứng muốn thuyết phục người nghe, phải sống thế nào cho xứng hợp với điều mình làm chứng, bởi nếu chứng cứ không vững chắc, người chứng không đáng tin thì có làm chứng đến đâu, làm chứng hùng hồn cỡ nào cũng chẳng làm ai “tâm phục, khẩu phục”, nếu không muốn nói ngược lại là làm mất  uy tín của chính người mình làm chứng, và hạ thấp đối tượng mình giới thiệu.
Cứ tưởng tượng người môn đệ Đức Giêsu được sai đi làm chứng Đức Giêsu, Thiên Chúa “hiền lành, khiêm nhường, giầu lòng thương xót, đơn sơ, giản dị, chân thành, tận tụy, hy sinh” lại kiêu căng, hống hách, tự mãn, tự phụ, ăn nói hồn đồ, hung hăng, ứng xử thô bạo, diêm dúa, khoe khoang, gian xảo, lười biếng, tham lam, hưởng thụ. Nếu nghe những môn đệ này hô hoán “hãy thương yêu, phục vụ như Chúa”, thì thiên hạ hoặc sẽ cho họ là bọn giả hình, bốc phét, hoặc xếp họ thuộc hạng “kinh doanh đức tin, buôn thần bán thánh”, và tất nhiên không ai sẽ nghe họ.    
Do đó, những đức tính làm người căn bản như trung thực, hiền hậu, ăn ở có tình có nghiã, có trước có sau, sống đơn sơ, lịch thiệp, không ích kỷ, lợi dụng, không tham lam, vơ vét, không trên đội dưới đạp, không theo gió trở cở, không hèn nhát phản bội, không vô ơn bạc nghiã, họăc chỉ phù thịnh chẳng phù suy… Tóm lại, trước khi là con Chúa, người môn đệ phải là con người”, nghiã là phải là người tử tế, có phẩm hạnh để người khác có thể tin, bởi những chuyện của “đời thường” đã không đáng tin, không tin nổi thì mong gì người khác tin chuyện “phi thường”, siêu nhiên, tin Thiên Chúa, tin hạnh phúc Nước Trời mình loan báo, làm chứng, giới thiệu.
Một khi đã là người tử tế, như nền tảng cho “con Chúa” đặt chân lên, người trẻ sẽ lớn nhanh trong đời sống thiêng liêng, từ một nguyên tắc không thể thay đổi, đó là Đức Giêsu đã làm người, nên người Kitô hữu phải trân qúy giá trị con nguời, vinh dự được làm người, và bổn phận phải trở nên con người tử tế, xứng đáng với ơn gọi làm người, như Đức Giêsu  suốt ba mươi năm ở Nadarét đã được cha mẹ là thánh Giuse và Đức Maria đào tạo để “ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghiã đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2,52).  
Chúng ta đừng bao giờ tách rời đời sống nhân bản với đời sống thiêng liêng, cách ly “con người” với “con Chúa”, nhưng cả hai phải là một, như Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người, nghiã là con người và Thiên Chúa cùng có mặt nơi Đức Giêsu, nhân tính và thần tính đồng hiện diện ở Ngài. Do đó, không thể có hai đời sống ở một con người: một đời sống làm người không nhân nghiã, và một đời sống làm Kitô hữu tuyệt vời thánh thiện. Nói cách khác, sẽ chỉ có những người vừa là Kitô hữu thánh thiện, vừa là người tử tế, mà không thể có Kitô hữu thánh thiện nơi con người “bất nhân, bất nghiã, bất hiếu, bất trung”, nên bổn phận đầu tiên của người môn đệ chính là tự đào tạo để cùng lúc là “con người tử tế, và Kitô hữu thánh thiện”.  
b.  Nỗ lực xây dựng đào tạo người khác:
Tự đào tạo mình gắn liền với công tác đào tào người khác, để họ cũng được trở nên người tốt, người Kitô hữu đạo hạnh, thánh thiện, bởi đức tin của người Kitô hữu luôn luôn hướng đến tha nhân, chứ không đứng yên một chỗ ở “cái tôi” ích kỷ, pháo đài, khép kín, hoặc nhắm đến “cái tôi” riêng lẻ, riêng biệt, và tìm cứu rỗi một mình “cái tôi” được rào dậu cẩn thận, được tường cao, chó dữ đêm ngày canh chừng, bảo vệ.
Vì thế, người trẻ được mời gọi lên đường đến với người khác để cùng họ trở nên môn đệ tốt lành của Đức Giêsu, bằng cùng nhau học với Đức Giêsu “hiền lành và khiêm nhường tận đáy lòng” (Mt 11,29), học với Đức Giêsu, mục tử nhân lành “đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10), học với Đức Giêsu “rửa chân cho nhau” (Ga 13,14), học với Đức Giêsu bài học “không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tinh mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13), để “trở nên tất cả cho mọi người, để cứu được nhiều người” (1 Cr 9,22).    
3.   Cho một thế giới mới trong ơn Bình An của Đức Giêsu phục sinh:
Tất cả công trình của Đức Giêsu, ở đó chúng ta được kêu gọi lên đường cộng tác đều nhắm đến việc loan báo Tin Mừng bình an của Đức Giêsu cho thế giới, và Tin Mừng ấy sẽ làm mới bộ mặt thế giới, đổi mới tâm hồn mọi người, để có một “trời mới, đất mới” trong ân sủng của Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của loài người.
Con người được đổi mới, thế giới được đổi mới sẽ được sống bình an, hạnh phúc trong nền văn minh sự sống và văn minh tình thương.
Xây dựng một nền văn minh sự sống, vì “Thiên Chúa là sự sống” (Ga 14,6), Thiên Chúa của kẻ sống, Thiên Chúa ban sự sống và trân qúy, bảo vệ sự sống. Thiếu văn minh sự sống, người ta sẽ coi thường, làm tổn thương, phá hoại, tiêu diệt sự sống; sẽ vi phạm quyền sống của người khác khi biến người khác thành dụng cụ, phương tiện phục vụ những ham muốn đê hèn, bất chính của mình; sẽ không đón nhận sự sống như ân huệ, nhưng sẵn sàng hủy bỏ sự sống vì ích kỷ, để rồi dẫn đến một thế giới luôn bất an, bất ổn vì sự sống của bất cứ ai cũng không được trân trọng, bảo vệ an toàn.
Đức Giêsu xưng mình là “sự sống”, Ngài còn qủa quyết là “sự sống lại” (Ga 11,25). Điều đó nói lên sự sống cao qúy biết bao và Thiên Chúa trân qúy sự sống thế nào! Chính vì muốn con người được sống, mà Đức Giêsu đã hiến mạng sống để chuộc tội chết của con người; chính vì thương con người phải chết, mà Ngài đã chết thay con người, để con người “được sống và sống dồi dào (Ga 10,10), nên sự sống phải là ưu tiên của mọi hoạt động ở người môn đệ Đức Giêsu”.
Vì thế, khi tham gia các công tác bảo vệ sự sống, giúp những người mẹ đang bế tắc, thất vọng muốn hủy hoại thai nhi tìm lại niềm vui sống và hạnh phúc làm mẹ, người Kitô hữu trẻ đích thực là những chiến sĩ của Tin Mừng sự sống, tông đồ của Thiên Chúa là sự sống, và xứng danh những con người góp công xây dựng một thế giới bình an, hạnh phúc với nền văn minh sự sống được lớn lên, lan rộng nhờ sức sống của Chúa Thánh Thần, Đấng làm cho mọi loài được sống.   
Ngoài ra, thế giới còn cần tình yêu, vì con người được sinh ra từ tình yêu Thiên Chúa, được cứu chuộc nhờ tình yêu Thiên Chúa, được hy vọng ở tình yêu Thiên Chúa, và được hạnh phúc trong Thiên Chúa là Tình Yêu (1 Ga 4,8), nên ở ngoài tình yêu, thiếu vắng tình yêu, loại bỏ tình yêu, con người không thể hạnh phúc, vì nơi bản tính con người đã mang lấy gien của Thiên Chúa Tình Yêu, Đấng tạo dựng nên con người.
Bạn trẻ có kinh nghiệm về hạnh phúc của tình yêu, cũng như đau khổ khi đánh mất tình yêu, nên hiểu bất hạnh của loài người, tai ương thế giới phải chịu khi nền văn minh tình thương bị gạt bỏ, ở đó không ai còn biết thương ai, không người nào hiền lành, nhân hậu, cảm thông, thương xót, cứu giúp người nào, nhưng tất cả đều vô cảm và đối xử với nhau như loài lang sói lúc nào cũng rình rập, ghanh ghét, tìm cách thanh toán, đạp đổ, vùi dập, truy diệt lẫn nhau; ở đó không ai tin ai, không ai muốn hiểu ai, không ai chịu nhường nhịn ai, không ai “xuống nước” chịu thua thiệt, và quyền lực duy nhất thống trị thế giới loài người sẽ là Ganh Ghét, Hận Thù, Bạo Lực, Chết Chóc, mà Luciphe và bè lũ ma qủy không ngừng hoạt động giữa loài người để dành  độc quyền.
Là môn đệ của Đức Giêsu, Thiên Chúa của sự sống và tình yêu, hơn nữa, Ngài còn là chính Sự Sống và Tình yêu, chúng ta không thể đi ngược hay chống lại sự sống và tình yêu, khi chủ trương hoặc đồng loã với những phong trào, tổ chức “phò sự chết, cổ võ ghen ghét, tiếp sức cho hận thù, bạo lực” dưới bất cứ hình thức và bằng bất cứ phương tiện nào. Chúng ta càng không thể cho phép mình quên bổn phận được kêu gọi lên đường, được sai đến với mọi người để làm chứng Tin Mừng sự sống và tình yêu, để loan báo sứ điệp tình yêu và sự sống, để giới thiệu Đức Giêsu, Đấng đã yêu thương loài người vô cùng và đến cùng đã tự nguyện hiến mạng sống mình, chết trên Thánh Giá cho mọi người được sống.
Tóm lại, đức tin đòi người trẻ phải lên đường, vì đức tin cần đôi chân dấn thân, nhập cuộc, đi theo Chúa, đến với mọi người. Và hành động lên đường của đức tin là Yêu Mến, hành trang của đức tin là Mến Yêu.
Với đức ái, đức tin được sống và lớn lên, người môn đệ  được sai  đi sẽ lên đường đến với muôn dân để làm “Men” trong “đấu bột” thế giới, cho thế giới dậy lên men “Sự Sống và Tình Yêu của Đức Giêsu”, hầu ơn Bình An phục sinh của Ngài tràn đầy các tâm hồn và biến đổi tất cả cho một “trời mới, đất mới” (Kh 21,1), thế giới mới được cứu chuộc, được yêu thương và được sống dồi dào.
Và xin Đức Giêsu phục sinh luôn đồng hành với các Bạn!
Jorathe Nắng Tím