Tìm kiếm Blog này

Thứ Sáu, 19 tháng 7, 2019

OAN UỔNG – OAN SAI

        Toà Án Nhân Dân cấp cao tại Hà Nội cho hay vừa hoàn tất hồ sơ bồi thường oan sai cho ông Trần Văn Thêm, 82 tuổi, ngụ tại huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, người phải mang thân phận tử tù suốt 44 năm, trong đó có hơn 2000 ngày bị giam giữ  và 14.500 ngày tại ngoại, nhưng chưa được minh oan… Theo hồ sơ vụ án, ngày 23.06.1970, ông Nguyễn Khắc Văn trong lúc cùng ông Trần Văn Thêm đi mua hàng đã bị đánh chết. Năm 1973, ông Thêm bị Toà Án Nhân Dân tỉnh Vĩnh Phú tuyên án tử hình về tội giết người và cướp tài sản. Năm 1976, ông Thêm được ra tù, khi một người thú nhận là thủ phạm. Nhưng bị can này sau đó tử vong, khi vụ án chưa xét xử… Phải chờ đến ngày 08.08.2016, Toà Án Nhân Dân tối cao mới xác định ông Thêm không thực hiện hành vi phạm tội.
      Tôi mạn phép tóm tắt vụ án oan sai của cụ Thêm do nhà báo Việt Dũng viết trên trang Pháp Luật điện tử, thứ năm ngày 20 tháng 6 năm 2019. Câu chuyện buồn của cụ Thêm chỉ là một trong vô số những chuyện buồn oan sai, oan uổng xẩy ra hằng ngày trong xã hội, mà sự thật ngày càng qúy hiếm, vì khó tin, khó tìm.
     Qủa thực, không thiếu những oan sai, oan uổng lớn nhỏ có mặt trong mọi sinh hoạt của cuộc sống làm chết cả đời người, tan nát cả gia đình, đổ vỡ cả hiện tại, tương lai, bôi đen, xóa bỏ tất cả công trạng oanh liệt của qúa khứ  huy hoàng.    
    Câu chuyện của cụ Thêm tuy rất buồn, nhưng cũng còn được phần nào an ủi vì những năm tháng tù đầy oan uổng đã được Nhà Nước giải oan, bồi thường, tuy số tiền bồi thường không đền bù được  những mất mát, thiệt hại mà suốt 44 năm ông cụ, và gia đình phải gánh chịu vì tội danh cướp của, giết người. Bên cạnh câu chuyện oan sai được may mắn giải oan, bồi thường, chắc chắn còn vô số những câu chuyện oan uổng khác không được minh oan, bị bịt đầu mối, bị ngàn đời lãng quên, bị ép phải xếp hồ sơ, nói chi đến bồi thường vật chất, phục hồi danh dự.
       Đó là chuyện oan sai, oan uổng chỉ có ngoài đời, còn trong đạo chẳng bao giờ xẩy ra. Đó là ý nghĩ và xác tín thường gặp nơi những tín hữu quyết tâm bảo vệ bằng mọi giá uy tín, danh dự, sự thánh thiện hoàn hảo của đạo. Người viết thông cảm với những đồng đạo đơn sơ này, nhưng không vì thế mà hèn nhát, a dua phủ nhận một sự thật trong đạo cũng không kém bẽ bàng như ngoài đời, đó là kết án oan uổng người vô tội. Và sự thật đáng buồn đó đã được Tin Mừng Mátthêu kể lại như sau :
      Đức Giêsu bị điệu ra trước mặt quan tổng trấn, ông này hỏi Người : Ông là vua dân Do Thái sao ?. Đức Giêsu trả lời : Chính ngài nói đó. Nhưng khi các thượng tế và kỳ mục tố cáo Người, thì Người không trả lời một tiếng. Bấy giớ tổng trấn Philatô hỏi Người : Ông không nghe bao nhiêu điều họ làm chứng chống lại ông đó sao ? Nhưng  Đức Giêsu không trả lời ông về một điều nào, khiến tổng trấn rất đỗi ngạc nhiên (Mt 27,11-14).
        Tin Mừng Gioan cũng tường thuật cùng một nội dung, nhưng thêm phần về sự thật : Ông Philatô hỏi : Vậy ông là vua sao ?Đức Giêsu đáp : Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phià sự thật thì nghe tiếng tôi. Ông Philatô hỏi Người : Sự thật là gì ? (Ga 18,37-38). Và Đức Giêsu đã yên lặng, không trả lời ông Philatô câu hỏi Sự Thật là gì ? của ông.  
       Vâng, chính Đức Giêsu đã bị những người đồng đạo Do Thái tố cáo oan uổng trước toà quan tổng trấn Philatô, đại diện toàn quyền đế quốc Rôma đang thống trị trên đất nước Ngài. Bị oan uổng tố cáo, bị oan sai kết án tử hình đóng đinh vào thập giá, Đức Giêsu đã là một trong những  nạn nhân của những oan sai, oan uổng do bộ máy tôn giáo vô cảm, vô hồn ; là một trong những phạm nhân vô tội bị tước đọat mạng sống, do lòng dạ nham hiểm, độc ác của những người lãnh đạo guồng máy Giáo Lý , Lề Luật ; là người tín hữu đáng thương vì gánh nặng oan khiên của cơ chế độc đoán vì dựa trên thần quyền. Hơn ai hết, Đức Giêsu đã chịu một bản án hoàn toàn oan uổng, một cái cái chết hoàn toàn oan sai, một hình phạt oan khiên, oan ức ngay trong đạo, do người có đạo được các thượng tế, chức sắc đạo diễn và khéo léo mượn bàn tay người đời , ngoài đời thực hiện.    
       Thiết nghĩ  đến lúc này, bạn và tôi có thể đồng ý với nhau : trong đạo hay ngoài đời, con người đều có thể bị chụp mũ, tố cáo oan uổng, hay bị kết án, trừng phạt oan sai, vì người đời  hay người có đạo cũng chỉ là những con người với tất cả giới hạn của tư duy, kiến thức, ý chí, đạo đức, nói tắt là giới hạn của cái Tâm, cái Tầm, đồng thời bị ràng buộc bởi vô vàn tương quan tốt, xấu, và chịu vây hãm bởi nhiều áp lực, ảnh hưởng thiện - ác chằng chịt, lẫn lộn.
       Từ quan điểm chung này, chúng ta cùng nhau khám phá sự thật của oan uổng, oan sai vừa bằng cặp măt nhân loại, vừa với cái nhìn đức tin :      
1.   Có oan uổng, oan sai, vì có Sự Thật bị  phủ nhận:
     Trong cả hai câu chuyện : một oan sai trong đạo với người vô tội là Đức Giêsu bị kết án đóng đinh, một oan uổng ngoài đời với phạm nhân vô tội là cụ Trần Văn Thêm bị mang án Cướp Của, Giết Người suốt 44 năm, sự thật của con người nạn nhân và sự thật về  hành vi của nạn nhân đều không được xã hội quan tâm, lắng nghe, tìm hiểu thấu đáo và  công tâm nhìn nhận.
    Không được quan tâm lắng nghe, nên những bản tự khai lý lịch nhân thân, tường trình vụ việc của cụ Thêm đã không được Toà Án lưu ý tìm hiểu, nghiên cứu. Những quan chức làm công tác phá án, thẩm định hồ sơ, quyết định án lệnh đều đã không chạm được sự thật của một con người vô tội, người công dân lương thiện, người nông dân chân chất, không hề tra tay cướp của, giết người.
       Vì có sự thật mà nên nông nỗi oan uổng, oan sai, khi sự thật không được tôn trọng, không được tìm tòi, nghiên cứu, thẩm tra kỹ lưỡng trước khi tuyên án. Vì có sự thật, nên khi sự thật vô tình hoặc cố tình bị ai đó, nhất là những người có quyền lực trong tay lấp liếm, che đậy, bóp méo, tráo đổi, uy hiếp, áp đặt, cắt bỏ, tẩy xóa, hủy hoại thì hậu quả không thể tránh là người mang sự thật phải chịu mọi oan uổng, gánh mọi oan khiên, và bị oan ức giập vùi, tiêu diệt. Vì có sự thật, nên oan uổng phát sinh khi sự thật bị gian dối ém nhẹm, bị hận thù tấn công, bị bạo lực  bức tử, nghiền nát.
      Đứng trước sự thật đang bị các thượng tế, kỳ mục và đám đông cả vú lấp miệng em, lấy thịt đè người, Đức Giêsu đã không nói gì khi thấy Sự Thật bị  hãm hiếp trắng trợn, và Con Người Thiên Chúa đang mang trên mình Sự Thật toàn vẹn và đích thực bị đám đông mồm loa mép giải bóp hầu, chịt cổ, không cho lên tiếng. Ngài đã không nói đuợc tiếng nói của Thiên Chúa là Sự Thật, không nói được lời của con người có Sự Thật, nên đã không trả lời câu hỏi của quan tổng trấn Philatô : Sự thật là gì ?, bởi lúc này đây, trước mặt Ngài, từ trong đạo, ngoài đời, từ  thần quyền đến thế quyền, chẳng còn ai lương thiện để bận tâm tìm kiếm, đón nhận Sự Thật.  
    Vì thế, trong cuộc đời, nhiều người công chính trước những vu oan, giáng hoạ vô cớ, những vu khống, tố cáo bất công đã noi gương Đức Giêsu giữ yên lặng, bởi chỉ yên lặng mới là câu trả lời còn chút giá trị cảnh cáo, nhắc nhở đám người gian dối, hồ đồ, quyền lực đang lên án người vô tội bằng giết chết Sự Thật của họ và về họ.
2.   Có oan uổng, oan sai vì có người làm chứng không được lên tiếng :
   Nếu không có sự thật bị bóp méo, lật lọng thì không có cảnh người mang sự thật bị lâm vào cảnh oan uổng cười ra nước mắt. Bên cạnh thảm cảnh sự thật bị chà đạp, và người mang sự thật bị trù dập, còn một thảm trạng không kém thương tâm, đó là người làm chứng cho sự thật cùng chịu chung số phận bị dầy xéo.
     Trong bất cứ vụ việc nào, sự thật luôn  là chià khóa mở ra tất cả, giải quyết tất cả một cách công minh, chính đại, không thiên vị ai, o ép bên nào. Đó là tinh thần tôn trọng sự thật, yêu mến sự thật và làm toả sáng sự thật, bởi chỉ sự thật mới thực sự giải phóng, hoá giải mọi sự, và hoà giải mọi người. Nhưng trong thực tế, người ta không luôn lương thiện, không luôn công bình, nên oan trái mới phát sinh, oan khiên mới nẩy mầm, oan uổng mới xuất đầu lộ diện và oan sai mới có cơ hội tràn lan tàn phá. 
      Chính vì thiếu lương thiện và công tâm, mà khi phân định, phán quyết, những kẻ có quyền trên người khác thường uốn sự thật theo hướng thuận lợi, lái sự thật vào quy hoạch sẵn có, bẻ sự thật theo đồ án đã lập trình bằng ngăn chặn tiếng nói của chứng nhân, ngăn cản sự can thiệp của người làm chứng, ngăn cấm tương quan, liên lạc giữa người chứng và đối tượng bị đặt thành vấn đề.
     Tóm lại, bất cứ chứng nhân, chứng từ, chứng cớ nào thuận lợi, có lợi cho sự thật đều bị xóa bỏ, cô lập, tẩy chay, từ chối. Và đây là nguyên nhân làm oan uổng ngày càng trở thành tai hoạ  khủng khiếp, và  khiến oan sai, oan trái lan rộng, lan nhanh với  một tốc độ chóng mặt làm chết đứng vô số người lương thiện, công chính, vô tội nhưng không tiếng nói vì thấp cổ bé miệng.
      Trong  những năm vừa qua, thế giới sôi động vì nạn lạm dụng tình dục của một số rất ít linh mục, và người ta bằng rất nhiều phương tiện không luôn lương thiện, vô tư, công bằng đã lên án các vị cách hồ đồ, bất công, khi không tôn trọng sự thật. Bằng chứng là nhiều vụ việc đã được giải oan, nhiều linh mục, giám mục bị cáo gian,vu khống, lên án hết sức tàn nhẫn đã được minh oan, trả lại danh dự. Trong những vụ việc được giải oan này, người ta nhận thấy hầu hết các nhân chứng đáng tin cậy đều đã không được lên tiếng, không được lắng nghe bởi những người có trách nhiệm.
     Có lẽ không cần nhấn mạnh thêm nữa vai trò của nhân chứng trong việc truy tìm sự thật, vì ai cũng biết : rất ít nhà lãnh đạo có trách nhiệm có thể quan sát sự việc, thu thập chứng cứ, đủ khả năng và khôn ngoan, cũng như độc lập để quyết định một cách khách quan, chí công vô tư, mà không bị thành kiến, thiên kiến, định kiến chi phối, không bị những người thân cận tạo sức ép, gây ảnh hưởng, không bị khuynh hướng cầu toàn, vo tròn hoàn hảo làm che khuất sự thật, không bị vinh quang của quyền lực và cám dỗ của chỗ đứng, chỗ ngồi xô đẩy vào mù quáng, vô cảm trước sự thật của một con người, hoặc về một biến cố, sự kiện nào đó.
    Trở lại vấn đề nhân chứng bị bức tử, không gì gần gũi, quen thuộc với người Kitô hữu hơn là dung mạo của thánh Gioan tiền hô trong Tin Mừng Mátthêu : thánh nhân bị vua Hêrôđê chém đầu, không chỉ vì ngài đã can ngăn vua không được lấy bà Hêrôđia, đang là vợ của anh mình là Philípphê, nhưng vì ông còn là một đại  ngôn sứ được dân chúng kính trọng, ngưỡng mộ (x. Mt 14,4- 5). Tại sao phải giết ngôn sứ ? Thưa vì ngôn sứ trước hết là nhân chứng, làm chứng cho người thật, việc thật. Người thật đây là Đức Giêsu, và việc thật là sự hiện diện cứu độ của Ngài.
      Ngay từ khi Đức Giêsu xuất hiện, Vua Hêrôđê tuy không nói ra, nhưng bắt đầu ngại vì đánh hơi được  danh tiếng và uy tín ngày càng lớn của Đức Giêsu trong dân chúng. Điều này là mối đe dọa cho ngai vàng của ông, nên ông nhen nhúm một kế hoạch triệt hạ Ngài, không để Ngài trở thành siêu nhân, siêu sao, thần tượng thu hút quần chúng, vì nguy hiểm cho vương triều ông đang trị vì.
     Cơ hội đến, hay đúng hơn là giọt nước cuối cùng làm tràn ly, nhất là trong cơn say nắng, say tình, Hêrôđê đã lạnh lùng ra lệnh chém đầu Gioan ngay trong ngục (x. Mt 14,10). Giết được Gioan, nhân chứng của Đức Giêsu, Hêrôđê nhẹ đi một bên vai gánh nặng lo cho ngai vàng có thể bị lung lay, sụp đổ.
       Thực vậy, có oan uổng vì có sự thật không được truy tìm, không được nhìn nhận cách chính đáng, cũng như có oan sai, vì có nhân chứng của sự thật không được lên tiếng làm chứng, hoặc có chứng cớ của sự thật không được quan tâm, có chứng từ của sự thật bị giấu nhẹm, giả mạo, sửa đổi, đánh tráo. Trong tiến trình tìm kiếm sự thật mà người làm chứng không được nói, hay có nói nhưng không được người có trách nhiệm lắng nghe, hoặc người có quyền quyết định có nghe nhưng không tin, không ghi nhận, không đối chiếu, không đặt lại vấn đề thì hậu qủa tất nhiên sẽ là một chuỗi dài những oan sai, oan trái, oan khiên nghiến nát thân phận và cuộc đời của người mang sự thật, và người  làm chứng cho sự thật.   
3.   Có oan uổng, oan sai vì có con người không được tôn trọng :
     Một xã hội mà con người được tôn trọng, và nhân quyền được đặt hàng đầu thì tình trạng oan uổng, oan sai sẽ giảm bớt rất nhiều. Do đó, khi người có trách nhiệm phân xử với ý thức tôn trọng đối tượng là người đang bị tố cáo, điều tra, thì sai lầm trong phán quyết sẽ khó có cơ hội xẩy ra, bởi người ta sẽ rất cẩn trọng, và khách quan ; rất bình tĩnh, khôn ngoan và công bằng, nhân ái ; rất ý tứ, tỉ mỉ  trong quan sát và lắng nghe ; rất dè dặt, thận trọng trong mọi ý kiến, và phán quyết,  nhất là người có lòng nhân ái và tôn trọng người khác sẽ không lấy mình làm chân lý khi phân xử ; không nhẹ dạ, hèn nhát, đồng loã, thiên vị, phe cánh khi nhận định một vấn đề ; không để mình bị cuốn hút, lôi kéo bởi cá nhân hay phe nhóm có thế lực, ảnh hưởng khi quyết định số phận của một người ; càng không để thành kiến, tiếng đồn, dư luận, lời bàn vô trách nhiệm làm nao núng khi kết luận.
     Cũng vì nhân vị không được coi trọng, nên người ta cẩu thả khi điều tra ; lười biếng khi nghiên cứu ; vô trách nhiệm khi đưa ra đề nghị, quan điểm ; vô cảm, vô can khi quyết định ; vô tâm, tắc trách khi phân xử. Chẳng thế mà ngoài những vụ xử oan uổng, oan sai, còn nhan nhản đó đây những trường hợp oan uổng, oan sai trong y tế, ở học đường, nơi công sở, ngoài đường phố như em Lê Thị Hà Vi, học sinh lớp Mười đã bị cưa chân do tắc trách của bác sĩ, như anh Nguyễn Bá Dần 33 tuổi bị giải phẫu mà không được xét nghiệm, chẩn bệnh kỹ lưỡng. Hậu qủa là anh đã từ chàng thanh niên khoẻ mạnh, lực lưỡng bị oan uổng biến thành phế nhân ngồi xe lăn, hay như chị Nguyễn Thị Kim Phụng, sinh 1980, nạn nhân vô tội bị tử vong, và sáu nạn nhân khác bị thương nặng khi chiếc ô tô BMW do nữ đại gia Nguyễn Thị Nga say xỉn, không bằng lái đâm bổ vào cán chết, gây thương tích oan uổng, khuya ngày 21.10.2018 tại ngã tư Hàng Xanh, Sàigòn.
4.   Có oan uổng, oan sai vì có những người có quyền nhưng thiếu khả năng, không đạo đức và vô trách nhiệm :
     Trong bất cứ vụ việc gây oan sai, oan trái, oan uổng nào đều có người có quyền đã quyết định sai sự thật, trái lẽ phải, ngược công lý. Phải có sai trái, nghịch ngược với sự thật, mới có người vô tội bị hàm oan, người tử tế bị bắt bớ oan uổng, người lương thiện bị tố khổ dã man, người tốt lành bị te tua trù dập, người đang lành lặn thành phế nhân, người đang sống phải chết. Có kẻ nắm giữ quyền sinh sát thiếu khả năng nhìn ra vấn đề, nắm bắt sự thật mới có cảnh tan gia bại sản, bị vu khống oan uổng, kết án oan sai. Có người kém đạo đức, thiếu tầm nhìn xa rộng, nhưng lại ở địa vị cầm cân nẩy mực, nắm giữ quyền phụ mẫu trên người khác, nên mới có cảnh người yếu bị đàn áp, người nhỏ bị chà đạp, người nghèo bị  bắt nạt, khinh khi.
      Vì thế bao lâu còn những con người thiếu tầm, thiếu tâm ở vào những vị trí lãnh đạo, hướng dẫn, quyết định thì còn những oan sai, oan trái, oan khiên, oan uổng, và tiếng khóc của người vô tội, máu của người bị oan vẫn ngút cao, mong  thấu đến Trời.
     Mong thấu đến Trời, vì chỉ có Thiên Chúa mới hiểu được nỗi oan của người hèn mọn bị hàm oan ; chỉ có Thiên Chúa mới thấu suốt sự thật của từng người, sự thật trong trái tim mỗi người đang bị người đời hãm hiếp, hành hạ ; và chỉ có Thiên Chúa mới là Đấng giải oan, minh oan cho người cô thân cô thế, thấp cổ bé miệng, không phe cánh, thế lực, không tiền bạc lót đường, mua chuộc kẻ quyền thế.
    Vâng, trong đạo cũng như ngoài đời, không thiếu những người buồn, cảnh buồn, chuyện buồn vì sự thật không được lương thiện tìm kiếm, không được công minh nhận định, không được công bằng phán quyết, không được chân thành đón nhận, cũng như con người không được tôn trọng đúng mức, nhất là khi những con người ấy không thuộc phe cánh lãnh đạo, phe nhóm nắm quyền, phe phái thế lực, phe đảng nhiều quyền lợi, ảnh hưởng.
      Và tâm tình gửi đến Bạn, có thể đã một lần là nạn nhân của những oan uổng, oan sai trong đạo, ngoài đời. Như Bạn, người viết không thuộc luật trừ, không được miễn trừ, nên hiểu thế nào là nỗi đau, nỗi nhục, nỗi khổ, nỗi oan ức khi sự thật của mình, sự thật về  hành vi của mình bị thiên hạ ngạo mạn và lố bịch ngồi xổm lên, rồi ba hoa đàm tiếu, đoán xét vô trách nhiệm. Nhưng chính trong những nỗi niềm ấy, tôi và Bạn hiểu thêm một điều quan trọng, đó là sự yên lặng cao cả, cao thượng và thánh thiện của Đức Giêsu trước chánh án Philatô không tâm, không tầm, lại hèn nhát, ba phải ; trước cáo trạng hồ đồ, ngụy tạo bởi các thượng tế và kỳ mục, tại phiên toà không nhân chứng, không tiếng nói giải thích, biện hộ.
      Thái độ yên lặng của Ngài thật cao cả, vì vượt xa những thấp hèn đang nhận chìm sự thật ; thái độ thật cao thượng, vì không đôi co, đấu đá với những con người chai lì, cạn kiệt chân lý và lòng nhân ái ; thái độ tuyệt đối thánh thiện vì hiền lành và bao dung trước xúc phạm nặng nề. Chính trong yên lặng ấy, yên lặng của Thiên Chúa từ bi và nhân hậu, mà người không biết cho là thất bại, đầu hàng, thua cuộc đang bừng sáng Tình Yêu  của Thần Khí, Đấng đã sai vào đời, đến với thế giới những sứ giả của Sự Thật giải phóng, Sự Thật cứu độ, như ngôn sứ Isai đã loan báo, khi nói về Đức Giêsu :
      Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa (Lc 4,18-19), và cho tiếng nói của người bị hàm oan được lắng nghe !
Jorathe Nắng Tím   



TẠI SAO PHONG TRÀO LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT BỊ LIÊN TỤC CHỐNG ĐỐI ?

     Phong trào tôn sùng và cầu nguyện với lòng Chúa thương xót được đức thánh giáo hoàng Gioan Phaolô đệ nhị (1920-2005) khởi xướng, cổ vũ, khuyến khích và được nhiều người trên thế giới tích cực hưởng ứng, nhiệt tình ủng hộ, sốt sắng tham gia và hăng say quảng bá tạo thành một làn sóng Lòng Chúa Thương Xót ngày càng dâng cao, lớn mạnh.
      Phong trào dựa trên mặc khải của Chúa Giêsu cho thánh nữ Helene Maria Faustina Kowalska (1905-1938) vào năm 1931. Đây là mặc khải tư được công nhận phù hợp với giáo lý đức tin của Giáo Hội, và được chứng thực, củng cố bởi  thông điệp Thiên Chúa giầu lòng thương xót của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ban hành ngày 30.11.1980, tông chiếu Dung mạo lòng thương xót do Đức Giáo Hoàng Phanxicô công bố ngày 11.04.2015 và lễ kính Lòng Chúa Thương Xót được Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thiết lập ngày 30.04.2000 vào chúa nhật thứ hai sau Phục Sinh. Điều này nói lên tầm quan trọng của phong trào trong sứ vụ loan báo Tin Mừng và làm chứng Đức Giêsu của Giáo Hội như tuyên bố của Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhân dịp khai mạc năm thánh Lòng Thương Xót ngày 08.12.2015 :
    Giáo Hội phải cấp bách loan truyền Lòng Thương xót của Thiên Chúa. Đời sống của Giáo Hội sẽ đích thực và đáng tin, khi Giáo Hội loan truyền Lòng Thương Xót ấy với niềm xác tín sâu sa.
     Và linh đạo Lòng Chúa Thương Xót được tóm tắt như sau: Cao điểm của Lòng Thương Xót là cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu trên thánh giá, chính Tình Yêu Thương Xót dìu dắt Giáo Hội, sám hối và cầu nguyện bằng tín thác vào Lòng Thương Xót Chúa.
     Ở Việt Nam, phong trào Lòng Chúa Thương Xót âm thầm nhen nhúm từ thập niên 1990, sau khi nữ tu Helene Maria Faustina Kowalsa được phong chân phước ngày 19.04.1993, và tưng bừng nở rộ khắp các giáo phận sau lễ phong hiển thánh ngày 30.04.2000 do Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, với lời tuyên dương đầy xúc động của Ngài : Thánh nữ Maria Faustina là món qùa của Thiên Chúa ban cho thời đại chúng ta.
    Là món quà của Thiên Chúa, vì hơn lúc nào hết, thời đại chúng ta đang sống mang qúa nhiều dấu ấn khủng khiếp của Satan, khi gian dối ngập tràn khắp nơi, ganh ghét có mặt mọi chỗ, và bạo lực hoành hành không bỏ sót một ngõ ngách. Ngay với trẻ nhỏ hôm nay, lừa đảo cũng chỉ còn là chuyện nhỏ ; ganh ghét, xử đẹp, thanh toán, rửa hận, trả thù bằng rạch nát mặt nhau, chém lìa tay nhau, cắt đứt cổ nhau, bằm nát xác nhau cũng chỉ là chuyện  bình thường, không có gì phải ầm ĩ, và mạng sống con người ngày càng rẻ như bèo, chỉ một số tiền không đáng bao nhiêu, người ta đã có thể thuê khử một mạng người, biến một đời người thành tàn phế.
  Là món quà của Thiên Chúa, Lòng Thương Xót Chúa qúy báu hơn lúc nào hết cho thời đại chúng ta, vì chỉ có Lòng Thương Xót mới ngăn được bước chân tai ương, bất hạnh và chết chóc của ma qủy đang rảo ngày đêm trên đường sống của nhân loại, vì chúng là chuyên viên của dối trá, ganh ghét, hận thù và bạo lực.
    Bên cạnh là niềm tin bị băng hoại tận gốc rễ, khi dối trá tàn phá tâm hồn để không ai còn dám tin ai. Niềm tin trở nên xa xỉ, xa lạ, huyền thoại, hoang đường, vì tin nhau hôm nay đồng nghiã với tự sát, khi tin không đem lại lợi nhuận, mà cũng chẳng còn mấy người đáng tin để mình tin, khi người chân thành, thật thà không còn nhiều, và người không làm điều mình nói, không giữ lời mình hứa, nói một đàng làm một nẻo, đội lốt, giả hình ngày càng đông, càng sinh sôi nẩy nở đến mức kinh dị ; khi con người sống với nhau mà phản bội dễ dàng như trở bàn tay, phản phúc là cơ may để thành đạt, phản trắc là đường ngắn nhất để tiến thân, phản thùng là  bí quyết để sống khoẻ, phản thầy phản bạn là chuyện được tự cho phép khi cần,  thì hậu qủa tất sẽ là một đời sống hoang vắng, ngột ngạt, bất hạnh, ở đó, người ta không nói nhưng ngầm hiểu : không có gì bằng  tiền và rất nhiều tiền, vì tiền giải quyết được tất cả, nên ơn sâu  nghiã nặng, danh dự, đạo đức, gia đình, quê hương, tôn giáo đều phải cúi mặt chào thua.
      Một xã hội chỉ cần tiền, kiếm tiền, qúy tiền để tiêu thụ bạt mạng, hưởng thụ vội vàng, tối đa, và thực dụng tận xương tủy như thế mặc nhiên đã chọn cái tôi làm thượng đế. Một thời đại chủ trương ích kỷ, chỉ biết mình, phe cánh  mình, và loại bỏ, phủ nhận người khác sau khi xử dụng người khác như phương tiện phục vụ mình cách tự nhiên, mà lương tâm không hề vấn vương, ray rứt, thì  hỏi thời đại ấy sẽ có một ngày mai đáng đợi chờ, hy vọng ?
    Và hơn lúc nào hết, bạo lực không còn là chuyện rất kinh tởm,  đáng sợ hãi với người thời đại hôm nay, khi mà cha có thể bóp cổ con thơ 5 tháng tuổi chỉ vì con khóc làm cha nhức đầu, cháu có thể lạnh lùng cắt cổ bà ngoại để lấy tiền, vợ có thể  thản nhiên tưới xăng thiêu sống chồng đang khi ngủ, và bạn cùng lớp có thể   hả    hãm hiếp, bề hội đồng nhau đến mất mạng.
    Tất cả những hoạt cảnh bi thương, sầu thảm, bất hạnh của thời đại do ghen ghét, hận thù, bạo lực, mất niềm tin, ích kỷ hưởng thụ đang đẩy con người vào vực thẳm chết chóc đã cho chúng ta thấy tình thương bao dung, nhẫn nại và trung tín với lời hứa cứu độ của Thiên Chuá khi Lòng Thương Xót của Ngài được ban cho thời đại chúng ta như món quà qúy giá.
     Nhưng món quà Lòng Thương Xót của Thiên Chúa đã được con người thời đại  đón nhận như thế nào ?
    Tất nhiên Giáo Hội đã đón nhận với tất cả niềm vui, lòng biết ơn và phấn khởi loan truyền, thực hành Lòng Thương Xót. Các Giám Mục trên toàn cầu đều hăng say qủang bá và kêu gọi giáo dân sống món quà Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, như cơ hội hiếm hoi để đổi mới mình và đổi mới thế giới, như Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, vị tông đồ nhiệt thành của Lòng Thương Xót đã khẳng định : chỉ khi nào con người cảm nhận được Lòng Thương Xót  vô cùng vô tận của Thiên Chúa, con người mới có thể nhìn anh chị em của mình với cái nhìn mới, và thái độ vị tha, tương trợ, đại lượng, bao dung, tha thứ.
    Rất nhiều sinh hoạt Lòng Chúa Thương Xót đã đem lại vô vàn hoa trái thiêng liêng, và Giáo Hội không ngừng khuyến khích, nâng đỡ, đồng hành với mọi người sống linh đạo  Lòng Thương Xót, nên không  một Giám Mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân chân chính, đích thực nào lại có thể chống lại Lòng Thương Xót, vì chống lại Lòng Thương Xót là chống lại chính Thiên Chúa, chống lại Đức Giêsu, Thiên Chúa của Lòng Thương Xót, đồng thời phủ nhận toàn bộ giáo lý, đức tin của Giáo Hội, cũng như hủy bỏ lý tưởng thánh thiện của người môn đệ đi theo Đức Giêsu, vì Thiên Chúa là Tình Yêu thương xót, Đức Giêsu là dung mạo của Chúa Cha giầu lòng thương xót, Giáo Hội mang sứ vụ làm chứng Thiên Chúa là Lòng Thương Xót, và sự thánh thiện của người Kitô hữu hệ tại ở lòng thương xót anh em mình.
     Vì thế, quy tội cho Giám Mục này, lên án linh mục, tu sĩ kia chống lại Lòng Thương Xót Chúa là sai lầm rất nguy hiểm, chưa kể đó là hành vi vu khống oan uổng làm tổn thương  các ngài, bởi chính các ngài là những người được sai đi loan báo Thiên Chúa thương xót nhân loại và cứu độ nhân loại vì xót thương.
    Nhưng tại sao có hiện tượng chống lại Lòng Thương Xót như chúng ta đang thấy ?
    Có hiện tượng chống phá Lòng Chúa Thương Xót, và sự thật này không ai chối cãi được. Nhưng ai chống phá mới là điều chúng ta cần tìm biết.
1.       Có người thuộc Giáo Quyền ra tay chống phá ?
    Người viết xin trả lời lập tức và dứt khoát : Giáo quyền  qua các Đấng Bản Quyền không bao giờ chống phá phong trào Lòng Chúa Thương Xót, vì trước hết, loan báo và làm cho mọi người sống Lòng Thương Xót là sứ vụ và bổn phận chính yếu của Giáo Quyền. Nếu có một Giám Mục giáo phận nào đó công khai lên tiếng chống lại Lòng Thương Xót Chúa thì nhất định giám mục ấy đã hoàn toàn biến chất và không còn là tông đồ của Đức Giêsu, và tất nhiên, người tín hữu không có nghiã vụ vâng phục, làm theo những chỉ thị trái ngược giáo lý, đức tin này. Nếu có một linh mục nào đó xỉ vả, mạ lỵ Lòng Thương Xót Chúa và xem đó là chuyện tào lao, bá láp, bông đuà thì quả thực không gì xúc phạm đến Thiên Chúa nặng nề hơn, vì Tình Yêu Thương Xót là chính Ngài, như thánh Gioan qủa quyết : Thiên Chúa là Tình Yêu (1 Ga 4,8). Vì thế, chuyện giám mục này ủng hộ, đức cha kia chống phá, cha xứ này khuyến khích, đồng hành, cha quản hạt kia ra sức ngăn cấm, tẩy chay là chuyện phiếm rẻ tiền, tin đồn nhảm nhí mà người Kitô hữu trưởng thành không được vội vàng, nhẹ dạ cho là chuyện có thật, việc nghiêm trọng, điều đáng tin.
     Tuy thế, nguyên nhân phát sinh những ồn ào về đấng bậc này muốn giải tán phong trào, chức sắc kia đòi thuyên chuyển, ngưng công tác linh mục nọ vì say mê Lòng Thương Xót có thể hình thành một cách ngoài ý muốn do :                    
a.             Vụng về trong cách giải quyết một vấn đề nào đó liên quan đến Lòng Thương Xót.
     Vì phong trào Lòng Chúa Thương Xót tuy mới mẻ nhưng lan tỏa rất nhanh  chóng và sâu rộng, nên không tránh được những thái quá bất cập trên phương diện tổ chức của người hướng dẫn, phụ trách phong trào. Những thiếu sót này không thể tránh, và không nên coi là nghiêm trọng đến nỗi phải giải tán giải thể phong trào, đang khi phong trào mang lại nhiều lợi ích thiêng liêng cho các linh hồn : hâm nóng lòng đạo đức, mở đường trở về, tạo  cơ hội truyền giáo cho lương dân.
     Người có trách nhiệm cần sáng suốt phân định đâu là cốt lõi, đâu là vỏ bọc bên ngoài, cái gì là chính, cái gì là phụ, điều nào không thể bỏ, và điều nào phải uyển chuyển, thay đổi cho phù hợp. Đối với một phong trào có tầm vóc hoạt động lớn và ảnh hưởng rộng, người có trách nhiệm không chỉ cần khôn ngoan, mà còn cần khôn khéo trong cách giải quyết vấn đề, bởi bất cứ một nhịp bị trật, một cung bị lỗi, một thanh âm bị lạc đều làm cho bài nhạc mất đi giá trị.
  Vì vụng về, có thể rơi vào những tuyên bố không tương xứng, khi sơ ý xử dụng  toàn từ ngữ dao to buá lớn để giải quyết một thiếu sót cỏn con ; hoặc kê khai đủ thứ điều khoản của hàng loạt sắc lệnh, tông huấn, quyết định, tuyên ngôn trước một vài khiếm khuyết chỉ cần nhẹ nhàng nhắc bảo. Tính cách vụng về được thấy rõ khi quá trầm trọng một vấn đề không có gì quan trọng, hay nghiêm trọng hoá một sơ sót không ảnh hưởng lớn đến bản chất của sự việc, hoặc làm cho một sai phạm đáng lẽ được giải quyết dễ dàng trở thành nhiêu khê, phức tạp, rắc rối, khó khăn.
b.             Vụng về trong việc trình bầy, cắt nghiã giáo lý và việc thực hành Lòng Thương Xót :
   Phong trào Lòng Chúa Thương Xót, vì quá mới, nên giáo dân chưa nắm bắt được đầy đủ linh đạo, cũng như những quy định của giáo quyền liên quan đến sinh hoạt. Đây cũng là nguyên nhân làm người tín hữu lấn cấn, giao động, hoang mang khi phải nghe, hay phải đọc nhiều quan điểm, nhiều chọn lựa, nhiều hướng dẫn khác nhau, có khi đối chọi nhau của một số đấng bậc.
     Việc trình bầy minh bạch, rõ ràng và phổ biến sâu rộng giáo lý, với những chỉ dẫn mục vụ liên quan Lòng Chúa Thương Xót thiết tưởng cũng là việc cần làm một cách rất khôn ngoan, để tránh những suy diễn, cắt nghiã không đúng như ý muốn của Giáo Hội.   
c.              Vụng về trong việc phân định thứ tự ưu tiên và thời điểm thích hợp để giải quyết  từng sự việc liên quan :
   Qủa thực rất khó khi phong trào dồn dập mang lại những thắc mắc, khiếu nại, đề nghị, yêu cầu, khi phong trào còn mới lạ với nhiều người. Do đó, người có trách nhiệm  sẽ dễ rơi vào tình trạng bối rối, mất bình tĩnh để hoặc vội vã giải quyết ráo ruốt một lần cho xong, hoặc giải quyết không theo một thứ tự ưu tiên sau khi cân nhắc lợi hại, hoặc không giải quyết gì vì thiếu tự tin. Tất cả đều sẽ không mang lại kết qủa mong muốn, và vô tình gây nhiều thiệt hại thiêng liêng cho nhiều người trong cuộc.
    Tóm lại, nếu có điều cần chỉnh sửa ở phía giáo quyền thì chỉ là sự vụng về ngoài ý muốn, được coi là chuyện thường tình và khó tránh khỏi ở con người. Chúng ta cần ý thức yếu tính và sứ vụ của Giáo Hội là loan báo Thiên Chúa của Lòng Thương Xót. Ý thức để yêu mến và không rơi vào những phê phán làm hại uy tín của các đấng bậc trong Giáo Hội, nhất là tránh gây chia rẽ trong lòng Giáo Hội, chỉ có lợi cho ma qủy, và thiệt hại nặng nề cho sự hiệp nhất và tình hiệp thông giữa các chi thể trong Thân Thể mầu nhiệm.   
2.       Ai là kẻ thực sự chống phá Lòng Thương Xót ?
   Thưa ma qủy vừa là kẻ chủ mưu vừa là kẻ thực hiện kế hoạch đen tối chống phá Lòng Thương Xót Chúa do :
a.        Bản chất của ma qủy là xảo quyệt. Chúng gieo rắc hoang mang, nghi ngờ, lo sợ:
     Bản chất này hoàn toàn đối nghịch với Tình Yêu thương xót là tin yêu, hiệp nhất, bình an. Và ngay từ bình minh của loài người, ma qủy đã để lộ chân tướng chống lại Tình Yêu Thương Xót khi gạ gẫm Evà phản bội Thiên Chúa là Đấng giầu lòng thương xót, để ông bà nguyên tổ rơi vào tình trạng hoang mang, nghi ngờ lòng tốt của Thiên Chúa (x. St 3,1-5), và hậu qủa là nhận ra mình trần truồng, mất hết tình nghiã, ơn huệ  và lo sợ, lẩn trốn Thiên Chúa (x. St 3,8-11).
     Chủ trương  chống phá Lòng Thương Xót Chúa của ma qủy không bao giờ chấm dứt, nhưng kéo dài cho đến tận thế, bao lâu còn con người, bởi ma qủy giành giật con người với Thiên Chúa. Chúng không muốn con người quy phục, yêu mến và thuộc về Thiên Chúa, nên tìm mọi cách, mọi kỹ thuật, mọi thủ đọan làm con người nghi ngờ Lòng Thương Xót Chúa và tách con người ra khỏi lòng tín thác mang lại ơn cứu độ này.
     Cùng một cách thức đã cám dỗ Evà, chúng gieo hoang mang, ngờ vực trong lòng người tín hữu và những người đi tìm Lòng Thương Xót khi triệt để khai thác những ý kiến, quan điểm không đồng nhất giữa những người có trách nhiệm  để tạo nên những nghi ngại, nghi ngờ, sợ hãi, lo âu, dè dặt, và từ đó kéo mọi người xa dần, bỏ quên Lòng Thương Xót.
     Chuyên viên gây chia rẽ, ma qủy biết lợi dụng những điểm yếu trong ứng xử giữa những người tuy cùng lý tưởng nhưng tính khí khác nhau tạo nên những căng thẳng rất nhỏ, không đáng gì, nhưng vào tay Satan đã trở thành nguyên nhân của những rạn nứt, đổ vỡ khó hàn gắn của bác ái, huynh đệ.
b.       Do bản chất của ma qủy là Ganh Ghét, Hận Thù :
    Công việc của ma qủy là làm cho mọi người không còn thương xót nhau, khi từ bỏ Thiên Chúa là Lòng Thương Xót. Câu chuyện Cain đã ghen với em mình và lòng ganh tỵ đã gây nên hận thù trong sách Sáng Thế đã làm chứng điều này : Cain bị Satan thúc đẩy đã không chế ngự được lòng ganh ghét nằm phục ở cửa lòng mình (St 4,7) ; không chịu đựng được thành công, niềm vui, hạnh phúc của em mình, khi Thiên Chúa nhận của lễ  Aben dâng (St 4,4).
      Cùng một chiến thuật gây hận thù quen thuộc, ma qủy đốt lên lòng ganh ghét vốn tiềm tàng trong tâm hồn mỗi người khi thấy anh em mình thành công. Để người này ghét người kia, anh em cùng Cha căm thù, oán hận nhau, ma qủy chỉ cần khơi dậy lòng ganh ghét, và khích chúng ta vạch lá tìm sâu để hạ người anh em xuống tận bùn đen, khi họ đang trên đà đi lên ; để phá người anh em đang khi họ thành công, thăng tiến ; để chặn đường đi của anh em  khi họ đang bước nhanh về phiá trước.     
     Và để đánh phá Lòng Thương Xót, ma qủy đã vận dụng mọi khả năng, chiến thuật tinh vi, hữu hiệu nhất khi làm cho những người môn đệ của Đức Giêsu thay vì nhìn vào chính Đức Giêsu đã nhìn vào những yếu đuối, thiếu sót của nhau, và khai thác những điểm yếu đó với mục đích làm cho không ai còn biết chạnh lòng, đồng cảm, xót xa, nhưng xoi mói, tìm tòi ở nhau những kẽ hở sai phạm  lề luật, quy định, nguyên tắc và nhân danh sứ vụ, lề luật, cơ đồ của Giáo Hội để cô lập, tẩy chay, loại bỏ nhau khỏi Lòng Thương Xót.    
        Chiến thuật được xử dụng của ma qủy còn là đội cao lên những thiếu sót cỏn con, không quan trọng liên quan đến kỷ luật, nghi thức để đánh sập chính Lòng Thương Xót ; hay tạo hoả mù, thổi phồng những chi tiết bên lề, phụ thuộc để đánh lạc hướng, làm mất cảnh giác người trong cuộc, rồi giáng thẳng đòn thù ngàn cân vào cốt lõi là Lòng Thương Xót. Chiến thuật này được chúng xài đi xài lại liên tục, nhưng rất tiếc, nhiều người trong chúng ta vẫn để bị sập bẫy thảm hại.  
c.        Do bản chất của ma qủy là Bạo Lực đưa đến sự chết :
    Bạo lực thuộc về ma qủy, và chết chóc là hậu qủa tất yếu của bạo lực. Sách Sáng Thế đã cho chúng ta nhận diện ma qủy và quy trình phá hoại thế giới và nhân loại của chúng, qua câu chuyện Cain giết chết em mình là Aben. Khởi đi từ đốt lên trong lòng Cain lòng ganh ghét, Cain đã đi đến hận thù em mình, và vì hận thù, căm tức, Cain đã quyết tâm đi đến bạo lực khi dụ em ra ngoài đồng và khi hai người đang ở ngoài đồng thì Cain xông đến giết Aben, em mình (St 4,8).
  Tất cả kế hoạch của ma qủy đều đưa con người đến sự chết ngang qua bạo lực. Chúng đã xử dụng bạo lực một cách tài tình, tinh vi, và đặc biệt trong nỗ lực triệt hạ những con người say mê Lòng Thương Xót :
·   Bạo lực ngôn từ như tung tin đồn, chia sẻ tin nhắn giật gân, động trời để hạ uy tín, bôi nhọ danh dự cá nhân những tông đồ Lòng Thương Xót. Hai mũi dùi thường được nhắm là tình và tiền. Đây là hai điểm nhậy cảm luôn có sức thu hút quần chúng hiếu kỳ, ganh ghét, nên khi bị tung lên, nạn nhân khó tránh khỏi tai tiếng, và mặc cảm nặng nề trước cái nhìn phán xét, lên án của đám đông thường đơn sơ nghĩ rằng : không có lửa làm sao có khói ?
·    Bạo lực đe dọa, áp đảo tinh thần bằng trắng trợn tiết lộ cách bất chính những thông tin cá nhân và những khế ước, biên bản mang tính nội bộ, phải được giữ kín.
·      Bạo lực chụp mũ khi xử dụng những thư tố cáo nặc danh, hồ đồ, không căn cứ, và dựa trên đó như nền tảng vững chắc để diễn dịch với ác ý dẫn đến việc hình thành một cáo trạng hoàn hảo.
·          Bạo lực lên án một cách chung chung, không cụ thể, chính xác, cốt để nạn nhân không thể vùng vẫy thoát khỏi vùng nhiễm độc. Thí dụ : khi lên án sinh hoạt Lòng Thương Xót của một vị nào đó mang tính thế tục và kích động, thì qủa thực không gì dã man, tàn ác, và bất công hơn đối với vị ấy, bởi khi rao giảng Lòng Thương Xót, vị ấy phải nói bằng ngôn ngữ của thế tục, với cách diễn tả của người trần tục, để những con người có xác thể phàm tục hiểu và đón nhận được Tin Mừng Lòng Thương Xót, nên nói đàng nào, giảng cách nào vị ấy cũng chết chắc với bản án mang tính thế tục được tiền chế, và phát tán không ngượng ngùng.
     Cũng thế, đã gọi là tổ chức phong trào, sinh hoạt cộng đoàn thì phải có nhiều người cùng quây quần, quy tụ. Và bất cứ một đám đông nào được quy tụ đều đòi phải có người đứng ra nối kết, làm cho sinh động, đốt nóng nhiệt huyết, hướng dẫn tiến về mục tiêu, và khuyến khích, nâng đỡ tinh thần, nên bản án có tính kích động sẽ đúng trong mọi trường hợp, nếu ác nhân cố tình cắt nghiã, diễn dịch công việc của vị ấy với ác tâm, ác ý.
·          Bạo lực nhận chìm chính người của Thiên Chúa bằng bàn tay, bàn chân của người thuộc về Thiên Chúa.
Đây là qủy kế vô cùng lợi hại ma qủy dùng để chống phá Thiên Chúa cách tài tình, hữu hiệu, bằng gây bất hoà, chiến tranh giữa những người thuộc về Thiên Chúa, làm việc cho Nước Chúa. Quỷ kế là khích người này khinh khi người kia và lên án nhau là ngôn sứ giả dựa vào chính Tin Mừng (x. Mt 7,15).
     Và còn vô số những mánh lới, chiêu trò độc ác khác ma qủy dùng để chống phá Lòng Thương Xót Chúa.
   Chúng ta cần xác tín điều này, đó là ma qủy ngày đêm rình rập, sàng lọc chúng ta (Lc 22,31), để lấy chúng ta ra khỏi Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, bởi chúng biết : Hiến Chương Nước Trời là Bát Phúc của Lòng Thương Xót, con đường phải đi của môn đệ Đức Giêsu cũng là của Giáo Hội là đường Thương Xót, và đường về Nước Trời cũng không ra ngoài Lòng Thương Xót ấy. Thế nên, chỉ có Lòng Thương Xót mới đem lại ơn cứu độ, vì Thiên Chúa đã cứu độ bằng chính con đường Thương Xót này.
    Do đó, tấn công Thiên Chúa là chống phá Lòng Thương Xót, xoá tên Thiên Chúa trong lòng người là tiêu diệt niềm tin của con người ở Lòng Thương Xót, làm suy yếu Giáo Hội là làm tan rã phong trào loan truyền và sống  Lòng Thương Xót Chúa.  
    Tóm lại, ma qủy chỉ có duy nhất một mục tiêu là phá hủy công cuộc cứu độ của Lòng Thương Xót, khai tử Thiên Chúa của Lòng Thương Xót trong đời sống con người, làm tan rã mọi công trình của Lòng Thương Xót khởi đi bằng bịt miệng, chặt tay chặt chân các ngôn sứ, tông đồ, thừa tác viên của Lòng Thương Xót đang say mê sống chết với Lòng Thương Xót vì phần rỗi các linh hồn.
    Đức Giêsu cảnh báo chúng ta sự có mặt rất manh động của Satan trong thế gian (Ga 15, 18-21), và dặn chúng ta phải tỉnh thức, để không rơi vào cám dỗ, cạm bẫy của Satan, mà cạm bẫy nguy hiểm nhất, cám dỗ nặng nề nhất chính là không tin vào Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
      Người viết một lần nữa khẳng định kẻ đang ra sức phá hoại Lòng Thương Xót không ai khác hơn là Satan và bè lũ, vì tự bản chất, chúng đã là những kẻ có mặt chỉ để chống phá Lòng Thương Xót của Thiên Chúa là ơn cứu độ của loài người, mà từng giây từng phút chúng cố lôi kéo ra khỏi vòng tay bao dung  thương xót của Thiên Chúa, Cha nhân hậu.
    Nhưng một mình, chúng không thực hiện được kế hoạch chống phá này, nên cần những bàn tay nối dài là con người, và chúng không ngừng cám dỗ, giăng bẫy để nhiều người rơi vào vòng vây chống phá Lòng Thương Xót của chúng.
    Để không sập bẫy ma qủy, tên  gian xảo, kẻ tố cáo, đứa gây hận thù, bạo lực, chết chóc, và để luôn tín thác ở Lòng Thương Xót Chúa, đồng thời trung thành với lòng thương xót nhau như lệnh truyền của Đức Giêsu : Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em (Ga 13,34), chúng ta cần lấy Lòng Thương Xót làm mục tiêu, đường hướng, kim chỉ nam cho bất cứ giải quyết nào liên quan đến Lòng Thương Xót, bởi giải quyết vấn đề của Lòng Thương Xót bằng giải pháp tranh chấp, ganh ghét, hận thù, bạo lực thì không còn gì phi lý và lố bịch hơn ; bởi nói chuyện Lòng Thương Xót mà dùng dao to búa lớn để chặt chém, ngôn ngữ sôi sục hận thù để giành giật thắng thua, máu me tanh tưởi để đấu đá  hơn - thiệt thì quả không còn gì kinh tởm, ghê gớm hơn ; bởi xây dựng Lòng Thương Xót mà dùng toàn kỹ thuật bạo lực, phá hoại thì còn gì mâu thuẫn, quái đản hơn.
     Và niềm an ủi, hy vọng vô cùng lớn lao của chúng ta là ma qủy luôn cúi đầu run rẩy, sợ hãi, đầu hàng trước lòng bao dung, tha thứ là cao điểm của Lòng Thương Xót. Chính vì thế, giây phút Satan và sức mạnh của hoả ngục hoàn toàn bị đánh gục và giải giới là khi Đức Giêsu thốt lên lời Tha Thứ cuối cùng trước khi tắt thở : Lậy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm (Lc 23,24).
      Ước gì chúng ta đừng ngộ nhận kẻ chống phá công trình Thương Xót của Thiên Chúa là anh em mình, rồi vội vàng lên án, quy tội, dù anh em có yếu đuối, lầm lỗi đến đâu, nhưng nhận diện tên phá hoại nguy hiểm là Satan và bè lũ, để với vũ khí là chính Lòng Thương Xót, chúng ta cùng xây dựng Thân Thể của lòng thương xót là Giáo Hội, và cùng ra trận với Đức Giêsu với vũ khí tối tân của Lòng Thương Xót là Tha Thứ tất cả, để Danh Thiên Chúa là Thiên Chúa của Lòng Thương Xót được cả sáng, Nước Thiên Chúa là Vương Quốc Thiên Chúa dành cho những ai có Lòng Thương Xót  được hiển trị, Thánh Ý Thiên Chúa là tất cả mọi người được cứu rỗi nhờ Lòng Thương Xót của Chúa được thể hiện dưới đất cũng như trên trời như kinh nguyện của Đức Giêsu (x. Mt 6,9-13) mà chúng ta hằng ngày cùng hiệp thông dâng lên Thiên Chúa, Cha chúng ta, Đấng giầu Lòng Thương Xót muốn chúng ta thương xót nhau để được Ngài thương xót (x. Mt 5,7).
Jorathe Nắng Tím