Suy Niệm 12: “XIN TỎ CHO CHÚNG TÔI ĐỨC GIÊSU THIÊN CHÚA”
Một
điểm chung thường gặp ở các nhà truyền giáo là ý thức rất mạnh và rõ nét về sứ
mạng tìm đến và loan báo Tin Mừng cho mọi
người. Ý thức ấy đôi khi qúa mãnh liệt, và đậm nét đến nỗi có thể làm lu mờ
và giảm thiểu một sự thực cũng rất quan trọng, đó là nhiều người đã tự nguyện tìm đến nhà truyền giáo để được lắng nghe
Tin Mừng.
Tin
Mừng nhiều lần kể về đám đông đi tìm Đức Giêsu, vì khao khát được nghe Ngài giảng,
và Ngài chạnh lòng cảm thương khi thấy họ vất vả đến với Ngài: “Ra khỏi thuyền,
Đức Giêsu trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương, và chữa
lành các bệnh nhân của họ” (Mt 14,14). Cũng như lần khác, Đức Giêsu đã nói với
các môn đệ: “Thầy chạnh lòng thương đám đông, vì họ ở luôn với Thầy đã ba ngày
rồi và họ không có gì ăn” (Mt 15,32).
Kéo
nhau đi theo để được nghe Ngài giảng dậy, được Ngài chữa lành các bệnh tật, đám
đông còn “ở luôn với Ngài” nhiều ngày đã nói lên nỗi ước mong, niềm trông ngóng
Đức Giêsu và Tin Mừng cứu độ của Ngài trong tâm hồn rất nhiều người.
Đó
cũng là thực tế các tông đồ đã chứng kiến, khi đám đông kéo đến và tụ tập quanh
các vị để được nghe nói về “Đức Giêsu Nadarét, là người đã được Thiên Chúa phái
đến với anh em. Và để chứng thực sứ mệnh của Người, Thiên Chúa đã cho Người làm
những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ giữa anh em. Chính anh em biết điều đó...
Đức Giêsu ấy đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập
giá mà giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, giải thoát Người khỏi
những đau khổ của cái chết. Vì lẽ cái chết không đời nào khống chế được Người
mãi” (Cv 2,22-24).
Nếu
trước đây đã có đám đông khao khát được cứu rỗi kéo nhau đi tìm Đức Giêsu, và
dân chúng tụ tập lắng nghe các tông đồ loan báo Đức Giêsu đã chết và sống lại,
thì nay nhà truyền giáo ở mọi nơi, mọi thời cũng không lẻ loi, cô độc, nhưng
luôn có rất nhiều tâm hồn khắc khoải mong ước được gặp các vị để được các vị “tỏ cho biết Đức Giêsu Thiên Chúa”.
Ý
thức và xác tín rằng: luôn có những “đám đông tâm hồn” được Chúa Thánh Thần thúc đẩy,
và ở đâu cũng có những người được Thần Khí mở lòng, mở trí đi tìm những người
được Thiên Chúa sai đến, nhà truyền giáo sẽ tránh được não trạng là ân nhân, là người thi ân của thế giới.
Não trạng này dễ đưa đến thái độ kiêu căng, hống hách, trịch thượng, vô ơn, không
tôn trọng người được rao giảng của nhà truyền giáo, vì nghĩ mình có quyền cho
hay không cho, tự mãn, tự đủ và không chịu ơn người nào, cũng không nghĩ đến
vai trò và tác động quan trọng của Chúa Thánh Thần. Đây đích thực là chướng ngại
rất lớn cho công cuộc truyền giáo, mà nhà truyền giáo cần thận trọng né tránh.
Nhà
truyền giáo còn biết mình được sai đến với muôn dân, nhưng “muôn dân” ấy không
là đám đông không có Chúa, đám đông vắng
ơn Thánh Thần. Trái lại, đám đông cũng được thúc đẩy bởi cùng một Thần Khí
đang thúc bách nhà truyền giáo lên đường. Cả hai, nhà truyền giáo và đám đông
được rao giảng đều được Chúa Thánh Thần “soi lòng dậy dỗ”, được Thần Khí “mở cửa
tâm hồn, thắp sáng niềm tin”, để người rao giảng “tỏ cho đám đông thấy Đức
Giêsu”, như Đức Giêsu đã trả lời Philípphê: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”,
khi ông nói với Ngài: “Xin Thầy tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha” (Ga 14,8-9).
Ở
đây, chúng ta thấy rõ sứ mệnh thiết yếu của nhà truyền giáo, căn tính của việc
truyền giáo, mục tiêu của công cuộc truyền giáo là “tỏ cho người khác thấy Đức Giêsu”, bằng làm cho người khác nhận ra
Đức Giêsu ở chính nhà truyền giáo, gặp gỡ Đức Giêsu trong “đời sống” của người
được sai đi, yêu mến Đức Giêsu ngay trong trái tim người giới thiệu Tin Mừng,
như các môn đệ nhận ra Chúa Cha qua Đức Giêsu, vì Ngài là dung mạo đích thực của
Chúa Cha. Chẳng thế mà khi Philípphê thắc mắc, Đức Giêsu đã trả lời ông: “Thầy ở
với anh em bấy lâu nay, thế mà anh Philípphê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy
là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha?” (Ga
14,9).
Trả
lời Philípphê cũng là sứ điệp Đức Giêsu gửi mỗi nhà truyền giáo. Sứ điệp ấy khẳng
định: Nếu anh em thấy Thầy là thấy Chúa
Cha, thì mọi người cũng phải thấy được
Thầy khi họ thấy anh em.
Bởi
môn đệ phải giống Thầy, nên nhìn môn đệ sẽ biết Thầy, quan sát đời sống môn đệ
sẽ vẽ được chân dung Thầy; bởi môn đệ không hơn Thầy, nên trò tốt thì Thầy tuyệt
hảo, sư phụ nhân hậu “sản sinh” những môn đệ nhân lành, Thầy tài đức sẽ cho ra đời
những môn sinh có đức có tài. Đó là quy luật của tương quan trong đời thường.
Với
Đức Giêsu, người môn đệ còn phải đi xa hơn gấp nhiều lần, vượt khỏi quy luật đời
thường vừa kể, để không chỉ trở nên giống Thầy, “đồng hình đồng dạng với Thầy”,
mà còn phải “nên một” với Thầy, “ở lại trong Thầy” (Ga 15,4), như “Thầy ở
trong Chúa Cha, và Chúa Cha ở trong Thầy” (Ga 14,11), vì ước mơ của Đức Giêsu
chính là “Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở
trong Thầy và Thầy ở trong anh em” (Ga 14,20).
Như
thế, sứ mệnh truyền giáo được Đức Giêsu trao phó không chỉ là rao giảng, loan
truyền, mà còn “tỏ ra cho mọi người thấy rõ, thấy chính xác Đức Giêsu là ai để
yêu mến và nên một với Ngài”. Nghiã là, người được rao giảng cũng sẽ phải đạt đến
tình trạng “đồng hình đồng dạng” với Đức Giêsu, nên một với Đức Giêsu, ở trong
Đức Giêsu như người rao giảng.
Và
để thực hiện công trình “tỏ cho người
khác Đức Giêsu và làm cho họ nên một với Đức Giêsu”, chính nhà truyền giáo
phải đạt đến mức độ thiết thân “nên một” này trước, thì mới có khả năng tỏ cho
muôn dân Đức Giêsu đích thực, Đức Giêsu Thiên Chúa và Con Người. Nếu không, lời
rao giảng của nhà truyền giáo dễ trở thành công tác chuyển giao một mớ kiến thức
tôn giáo mà không giới thiệu một con người, không làm chứng một Thiên Chúa,
công việc mà chỉ có tình yêu “nên một” trong nhau, tình yêu kết hiệp mật thiết
với nhau mới có thể nói đúng về nhau, diễn tả chính xác về người mình biết,
mình yêu cho người khác.
Nói
tóm lại, chỉ với ngôn ngữ của tình yêu đích thực, người môn đệ mới nói xác thực về Thầy mình cho người khác; chỉ
bằng ngôn ngữ Tình Yêu sâu sa dành cho Thầy mình, người được Đức Giêsu sai đi
truyền giáo mới có thể thuyết phục người khác yêu mến và tin nhận Đức
Giêsu là Thiên Chúa Tình Yêu, là Mục Tử nhân lành, là Người Cha giầu lòng
thương xót.
Thực
vậy, Đức Giêsu muốn các môn đệ Ngài phải ở trong Ngài, nên một với Ngài, vì
truyền giáo là sứ mệnh hệ trọng, cam go và khó khăn: khó khăn vì giới thiệu một
Thiên Chúa cho con người, cam go vì Thiên Chúa ấy không chỉ là Thiên Chúa mà
còn là Người, và hệ trọng, vì “Thiên
Chúa làm người” ấy là Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại, mà bất cứ ai muốn
được cứu sống đều phải nghe tiếng Ngài
và đi qua Ngài (x. Ga 10).
Ngài
còn trao cho các ông trách nhiệm tỏ cho
người khác về Ngài một cách đích thực, chính xác, không sai sót, không làm
méo mó, lệch lạc dung mạo Con Người - Thiên Chúa của Ngài.
Và
để làm được công việc khó khăn này, ngoài đòi hỏi trở nên giống Ngài, đồng hình
đồng dạng với Ngài, mang cùng trái tim như Ngài, có cùng thao thức, khắc khoải,
mơ ước như Ngài, nhà truyền giáo phải hiểu: không còn cách thế, phương tiện nào
tốt hơn, hữu hiệu hơn để người khác nhận ra Đức Giêsu Thiên Chúa nơi mình, qua
lời mình nói, qua việc mình làm, qua đời mình sống, bằng liên lỉ ở lại trong
tình yêu kết hiệp với chính Đức Giêsu, nguồn mạch Tình yêu.
Đến
đây chúng ta hiểu rõ hơn: tại sao Đức Giêsu đã không đưa ra một phương án nào
khác ngoài “Anh em hãy thương yêu nhau,
như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12) như dấu hiệu duy nhất của người
môn đệ thuộc về Ngài và được Ngài sai đi truyền giáo? Tại sao Đức Giêsu đã chọn
giải pháp truyền giáo bằng để người ta nhận ra Ngài qua các môn đệ, khi họ yêu
thương nhau? (x. Ga 13,35)
1.
Truyền
Giáo hệ tại ở lòng yêu mến Đức Giêsu :
Muốn giới thiệu Thiên Chúa, nhà truyền giáo
phải yêu Thiên Chúa, phải có kinh nghiệm tình yêu với
Thiên Chúa, nếu không sẽ không biết gì về Thiên Chúa để nói về Ngài, “vì Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4,8).
Bởi
thế sẽ không có truyền giáo đích thực và hữu hiệu, nếu không có tình yêu sâu sa
giữa Thiên Chúa và nhà truyền giáo, vì hoa trái của truyền giáo không hệ tại ở
bất cứ khả năng, điều kiện, phương tiện, thế lực nào khác ngoài Tình Yêu trong
Đức Giêsu :“Ai ở lại trong Thầy, và
Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh
em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
“Chẳng làm được
gì” mang một ý nghiã thất bại hoàn toàn, vô
ích, vô dụng toàn phần, toàn bộ. Không ở trong tình yêu của Đức Giêsu, công việc
truyền giáo không mang một ý nghiã thiêng liêng nào, vì truyền giáo là tỏ cho
người khác biết Thiên Chúa yêu thương họ trước khi họ yêu mến Ngài.
Để
nói được Thiên Chúa yêu thương họ, nhà truyền giáo sẽ diễn tả thế nào tình yêu
Thiên Chúa dành cho con người, nếu chính nhà truyền giáo chưa một lần cảm nghiệm
tình yêu thiêng liêng ấy? Để truyền vào trái tim người khác tình yêu Đức Giêsu,
nhà truyền giáo sẽ truyền cách nào, nếu chưa một lần đi trên con đường tình của
Thiên Chúa và con người? Để thắp sáng,
và đốt nóng trái tim người được rao giảng Tin Mừng, nhà truyền giáo đốt bằng lửa
nào, thắp bằng ánh sáng nào, nếu tim nhà truyền giáo chưa một lần bừng cháy, rực
lửa tình yêu Đức Giêsu?
Thế
nên tiên vàn của truyền giáo là “yêu mến
Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy,
và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14,21).
Được Đức Giêsu tỏ
mình, người môn đệ, nhà truyền giáo mới có thể “tỏ cho mọi người Đức Giêsu, Thiên Chúa làm
người, Đấng cứu độ muôn dân” là mục đích của ơn gọi tông đồ và sứ mệnh truyền
giáo.
2. Truyền Giáo hệ tại ở
tình yêu thương anh em:
Vì
truyền giáo không là công việc dành riêng cho một người, công tác đặc cử cho riêng
một nhóm, vinh dự dành riêng cho một giai cấp, quyền lợi của riêng một đoàn thể,
nhưng là ơn gọi và sứ mạng của tất cả mọi người đã nhận Đức Giêsu là Đấng Thánh
của Thiên Chúa và dấn thân đi theo Ngài, nên không ai, không tổ chức, không phe
nhóm nào được phép độc quyền bao sân, toàn quyền thao túng. Chính vì thế, truyền
giáo đòi hợp tác, đòi cộng tác, đòi nhiều người cùng làm, đòi tất cả cùng tham
gia, đòi mọi thành phần cùng chung vai sát cánh. Và để thực hiện công tác
chung, công việc chung là truyền giáo, mọi người phải hiệp nhất trong tình yêu
của chính Đức Giêsu, như lệnh truyền của Ngài: “Anh em hãy thương yêu nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga
13,34).
Tại
sao Đức Giêsu muốn môn đệ Ngài phải yêu
thương bằng tình yêu của Ngài, và yêu thương như Ngài đã yêu thương họ?
Thưa
vì tình yêu của Ngài không là tình yêu của thế gian, cách yêu của Ngài cũng không
phải cách yêu của con người, khi tình yêu
được Ngài thay đổi định nghiã và đổi mới cách yêu thương.
Thực
vậy, không chỉ thế gian mà cả Luật Môsê cũng dậy rằng: “Hãy yêu đồng loại
và hãy ghét kẻ thù”. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: “hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt
5,43-44). Luật còn dậy: “Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em:
đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị
ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh
để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt
anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin thì hãy cho; ai muốn
vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi” (Mt 5,38-42).
Đức
Giêsu còn dậy các môn đệ : “Không có tình thương nào cao cả hơn tình
thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13), và làm
gương yêu thương khi “Người đã yêu
thương họ đến cùng” (Ga 13,1).
Với
tình yêu và cách yêu của Giới Luật mới, Đức Giêsu đòi hỏi những ai muốn theo
Ngài phải thương yêu nhau, vì chỉ khi thương yêu nhau, người môn đệ mới làm chứng
về Ngài, và mới tỏ được Ngài cho người khác.
Như
thế, nhà truyền giáo không thể lên đường mà bỏ quên hành trang “yêu thương nhau” như Đức Giêsu đã
thương yêu các vị; không thể lơ là bổn phận “yêu thương nhau” như điều kiện để
truyền giáo, vì truyền giáo hệ tại ở tình yêu dành cho Đức Giêsu, và cùng lúc
tình yêu dành cho nhau.
Nhưng
“yêu thương nhau” đây không chỉ là
tình yêu giữa anh chị em được sai đi truyền giáo, tình thương giữa anh em môn đệ,
tông đồ với nhau, tình yêu thương của riêng giai cấp được chọn và sai đi, nhưng
còn là tình yêu của nhà truyền giáo với người được truyền giáo, tình thương giữa
người rao giảng và người được nghe giảng,
như Đức Giêsu đã chạnh lòng thương đám đông đi theo Ngài và lắng nghe Ngài dậy
bảo.
Bởi
có tình yêu, nhà truyền giáo mới tôn trọng quyền lắng nghe và quyền chọn đi
theo Đức Giêsu của người được rao giảng. Nếu không, truyền giáo sẽ chỉ là khống
chế tự do của người khác. Điều này trái
ngược với đức tin là ân huệ của Thiên Chúa mà mỗi người đón nhận với tất
cả tự do.
Bởi
có tình yêu, nhà truyền giáo mới nhìn nhận giá trị làm con Thiên Chúa, và là
anh em của chính nhà truyền giáo nơi người được truyền giáo. Nếu không, mãi mãi
người được truyền giáo sẽ bị coi là công dân hạng hai, hạng ba, hạng bốn của Nước
Trời, so với nhà truyền giáo luôn là công dân hạng nhất, công dân ưu tú, ngoại
hạng, đối chọi với tinh thần của Đức Giêsu được chính Ngài mặc khải trong dụ ngôn “Thợ làm vườn nho”, với
khả thể bất ngờ: “Những kẻ đứng chót sẽ được lên, hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu
sẽ phải xuống hàng chót” (Mt 20,16).
Bởi
có tình yêu, nhà truyền giáo mới không rơi vào tình trạng mị dân khi truyền giáo.
Và vì không nhắm bất cứ mục đích “ích kỷ, vụ lợi” nào, nhà truyền giáo mới hoạt
động một cách vô tư vì lợi ích và hạnh phúc thiêng liêng của người khác, mà
không mua chuộc, móc nối và biến những người được rao giảng thành đám đông “fan
cuồng” của mình.
Bởi
có tình yêu, nhà truyền giáo mới không e dè, ngần ngại mời gọi người được truyền
giáo tham dự tích cực và thực sự vào đời sống của Giáo Hội, mà không phân biệt
kỳ thị hay sợ hãi, bởi “hiệp thông và chia sẻ trách nhiệm trong Giáo Hội” là mục
tiêu phải đạt của tiến trình truyền giáo.
Bởi
có tình yêu, nhà truyền giáo mới có thể nói với người được rao giảng ngôn ngữ Tình Yêu của Đức Giêsu, một thứ ngôn ngữ mà
ai cũng nói được, cũng hiểu được, vì không ngôn ngữ nào dễ hiểu, dễ nói hơn
ngôn ngữ tình yêu, không ngôn ngữ nào lọt sâu trong lòng người, thấm sâu vào đời
sống bằng ngôn ngữ của trái tim, như đường tình từ trái tim đến trái tim là con đường
ngắn nhất, nhanh nhất, hiệu qủa nhất giữa con người.
Vì
thế, nhà truyền giáo không yêu người mình rao giảng sẽ không thể thành công, vì
không ai muốn nghe người không thương mình nói; không ai dại dột tin người “nói
một đàng làm một nẻo”, rao giảng Tin Mừng Tình Yêu Cứu Độ, nhưng hành động như
kẻ vô cảm, nhẫn tâm, và tất nhiên không
ai ngu dốt đặt hy vọng nơi người chuyên gieo ảo tưởng, chuyên dệt ảo ảnh,
chuyên vẽ vời hão huyền “bánh vẽ tình yêu”, để trục lợi, mưu tìm vinh quang cá
nhân.
Tóm
lại, khi được gọi và sai đi, nhà truyền giáo nghiễm nhiên phải hiểu: mình được
sai đi để loan báo Tin Mừng yêu thương, giới thiệu và làm chứng Thiên Chúa yêu
thương, và sứ mệnh này chỉ có thể thực hiện khi chính nhà truyền giáo có khả
năng tỏ cho người khác Thiên Chúa yêu thương đang hoạt động trong họ, đang hiện
diện và đồng hành với họ trong công việc truyền giáo, để nhà truyền giáo không
bị nhìn và bị người được rao giảng nhận ra: họ chỉ là những người nói thuê với
ngôn từ hoa mỹ, chữ nghiã rỗng tuyếch, như những loa phóng thanh vô hồn, vô cảm,
vì trái tim họ chẳng dành cho ai, tình yêu họ không hướng về Đức Giêsu mà cũng
chẳng hướng đến người đang nghe họ rao giảng.
Đừng
tưởng người khác nhìn không tỏ, nghe không rõ, nhưng ai cũng có tai, có mắt và
khả năng nghe, nhìn không chênh lệch bao nhiêu. Thế nên khi không yêu thương mà
giảng Đức Ái; không bác ái mà dậy dỗ yêu thương; không từ tâm, nhân hậu mà lên
lớp Tin Mừng Thương Xót; không đơn sơ, giản dị mà huyên náo chuyện khó nghèo Phúc
Âm; không qủang đại, hy sinh mà to tiếng thúc đẩy thiên hạ xả thân, đóng góp;
không khiêm tốn phục vụ mà diễn qúa sâu kịch bản “rửa chân”; không nhớ đến ai một
lần, mà luôn miệng kêu gào phải chia sẻ, cầu nguyện; không dám bỏ mình một gang
tấc, quên “cái tôi” một phút giây mà cứ hô hoán “phải từ bỏ, vác thập giá mình”,
thì nhà truyền giáo đang tự đánh mất mình, khi trơ trẽn biến mình thành người nói
dối, kẻ giả hình rất lố bịch, hợm hĩnh.
Do đó, được mời
gọi lên đường truyền giáo, người được sai đi phải xác tín:
· Thiên Chúa là Thiên Chúa Tình Yêu. Ngài không
thể là một thiên chúa khác, nên yêu thương là lệnh truyền và điều kiện để theo
Ngài và được sai đi.
· Tin
Mừng là Tin Vui của Tình Yêu. Tin Mừng ấy không thay mầu đổi sắc để biến thành
tin buồn, tin sét đánh, tin thất vọng, tin vu khống, tin hận thù, tin phá hoại, tin
vịt cồ, tin nhảm nhí, nên Yêu Thương là ngôn ngữ duy nhất để loan báo Tin Mừng
mà người được sai đi loan báo phải được trang bị.
· Giới
luật mới của Đức Giêsu là Tình Yêu “được định nghiã lại”: Yêu thương cả kẻ thù,
nên trái tim của nhà truyền giáo phải có chỗ cho kẻ thù, lời cầu nguyện của người
được sai đi phải mang cả kẻ ngược đãi, bách hại mình. Nếu không, truyền giáo chỉ
còn được coi như tuyên truyền một giáo thuyết, mà không “làm cho muôn dân trở
thành môn đệ” (Mt 28,19), không nhắm “trở nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng
hoàn thiện” vì Ngài yêu thương (Mt 5,48).
· Đối
tượng của đức ái được Đức Giêsu xác định là “người nghèo đói, rách rưới, bệnh tật,
tù đầy, khách lạ, tỵ nạn, vô gia cư, thấp cổ bé miệng, cô thân, thất thế, yếu
đuối bé nhỏ, bị bỏ rơi bị đàn áp”, nên nhà truyền giáo sẽ hoàn toàn phản chứng
nếu chỉ chạy theo người có quyền, có của; đồng loã với kẻ gian tham, o bế phường
bóc lột, và lệ thuộc, hèn nhát, câm nín trước kẻ nắm bạo quyền sinh sát người
lành, kẻ yếu.
Vâng,
Đức Giêsu, Đấng sai nhà truyền giáo đi, cũng là Đấng nhà truyền giáo hết lòng
yêu mến, giới thiệu, làm chứng trước muôn dân, và làm cho mọi người trở thành
môn đệ Ngài. Ngài là Thiên Chúa nhân hậu, giầu lòng thương xót, Đấng Cứu Độ duy
nhất của loài người, Đấng đến trong thế giới, ở giữa nhân loại để yêu thương và
cứu chuộc mọi người.
Đó
là lý do truyền giáo không thể tách rời Tình Yêu, không thể ở ngoài Tình Yêu,
không thể không “nên một trong tình yêu với Đức Giêsu” như cành không thể tách
khỏi cây, nếu không sẽ khô héo liền (x. Ga 15,1-8).
Chính
Tình Yêu Đức Giêsu làm cho nhà truyền giáo được hiệp nhất với Thiên Chúa, và chỉ
trong Thiên Chúa, trong Tình Yêu Đức Giêsu và được Tình Yêu Đức Giêsu thúc
bách, nhà truyền giáo mới có khả năng “tỏ
cho người khác Đức Giêsu Thiên Chúa” bằng yêu thương họ với chính Tình Yêu
được hiệp nhất trong Thiên Chúa, bởi ở ngoài Tình Yêu là Thiên Chúa, là Tin Mừng,
là Giáo Lý, là Giới Luật, là Lẽ Sống, là Đối Tượng, là Động Lực, là Con Đường,
là Phương Tiện, là Cách Thế, nhà truyền giáo sẽ không làm được bất cứ việc gì,
không đem lại bất cứ hoa trái nào cho mình cũng như cho người khác trên đường
truyền giáo, trong công cuộc truyền giáo.
Jorathe
Nắng Tím